top of page

Chương 3. Đánh Mỹ trên chiến trường Quảng Trị

  • tuongquankhuatduyt
  • 1 ngày trước
  • 65 phút đọc

Đã cập nhật: 6 giờ trước

 

Trước khi nói về những ngày đánh Mỹ trên chiến trường Quảng Trị, tôi muốn dành ít trang nói về giai đoạn sau Hiệp định Giơ-ne-vơ đến năm 1967 đối với tôi.

Ngày 20 tháng 7 năm 1954, Hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết và bản tuyên bố chung của các nước tham gia hội nghị thừa nhận: Tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của nhân dân Việt Nam, Cam-pu-chia và Lào; quy định quân đội Pháp phải rút khỏi các nước Đông Dương...

Về Việt Nam, bản tuyên bố chung ghi rõ: "Đường ranh giới về quân sự chỉ có tính chất tạm thời, không thể coi như là một biên giới chính trị hoặc lãnh thổ" và quy định thời hạn tổ chức tổng tuyển cử để thống nhất nước Việt Nam vào tháng 7 năm 1956.

Hội nghị Giơ-ne-vơ thành công là một thắng lợi to lớn của quân và dân cả nước ta sau 9 năm kháng chiến lâu dài, gian khổ nhưng vô cùng anh dũng, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Nhưng đối với đế quốc Mỹ, với sự tính toán hết sức nham hiểm, giới cầm quyền đã không ký vào bản tuyên bố chung của Hội nghị Giơ-ne-vơ. Cùng ngày 20 tháng 7 năm 1954, tổng thống Mỹ Ai-xen-hao tuyên bố: "Mỹ không ký Hiệp định Giơ-ne-vơ nên không bị ràng buộc bởi hiệp định". Như vậy, Mỹ đã bộc lộ dã tâm hất cẳng Pháp để nhảy vào miền Nam Việt Nam.

Ngày 8 tháng 9 năm 1954, Mỹ lôi kéo Anh, Pháp và một số nước chư hầu lập khối Đông Nam Á (SEATO), đặt miền Nam Việt Nam, Lào và Cam-pu-chia vào khu vực bảo hộ của khối. Tiếp đó, ngày 17 tháng 11 năm 1954, tướng Co-lin - đại sứ Mỹ đến Sài Gòn mang theo một kế hoạch của Mỹ gồm 6 điểm: Chỉ ủng hộ Ngô Đình Diệm và viện trợ thẳng cho Diệm, không qua Pháp; Thành lập quân đội "quốc gia" cho Diệm do Mỹ huấn luyện và cung cấp vũ khí; Lập "quốc hội", thực hiện "độc lập"; Thi hành cải cách điền địa, thực hiện định cư cho số người miền Bắc di cư vào; Thay đổi các thứ thuế dành ưu tiên cho hàng hóa và tư bản Mỹ: Đào tạo cán bộ hành chính cho Diệm.

Trước sức ép của Mỹ, ngày 2 tháng 12 năm 1954 Pháp đã phải ký với Mỹ một hiệp ước về việc rút quân Pháp khỏi miền Nam Việt Nam. Rõ ràng là, âm mưu của Mỹ đối với miền Nam Việt Nam là có tính toán từ trước; sau đó Mỹ thực hiện chiến lược "chiến tranh đặc biệt" và "chiến tranh cục bộ", đưa nửa triệu quân viễn chinh xâm lược miễn Nam nước ta tiến hành một cuộc chiến tranh tàn bạo kéo dài 21 năm.

Trở lại tình hình ở miền Bắc, sau khi có Hiệp định Giơ-ne-vơ. Trước đó, ngày 2 tháng 7 năm 1954 địch ở Phủ Lý tháo chạy, Trung đoàn 48 chúng tôi được lệnh truy kích diệt một bộ phận sinh lực của chúng, phá hủy nhiều xe tăng, xe cơ giới giải phóng thị xã Phủ Lý, tỉnh Hà Nam. Lúc này, tôi được bổ nhiệm làm Đại đội phó, anh Phùng Khánh Hiểu -Đại đội trưởng Đại đội 27 Tiểu đoàn Thanh Lũng (Tiểu đoàn 2), Trung đoàn 48.

Theo chủ trương của Bộ Tổng tư lệnh, Đại đoàn 320 sử dụng Trung đoàn 48 và Trung đoàn 52 hành quân về tỉnh Thái Bình đứng chân ở huyện Quỳnh Phụ. Thực hiện các điều khoản trong Hiệp định Giơ-ne-vơ, các đơn vị chủ lực của quân đội ta lần lượt vào tiếp quản các thị xã, thành phố. Để chuẩn bị cho việc tiếp quản Thủ đô Hà Nội, cuối tháng 9 năm 1954, Bộ Tổng tư lệnh thành lập Đại đoàn 350 làm nhiệm vụ bảo vệ Trung ương. Những người về sư đoàn này phải chiến đấu tốt và hầu hết là đảng viên, tôi được lựa chọn trong số ấy.

Tôi và một số người nữa hành quân bộ từ Thái Bình về Sơn Tây. Tiểu đoàn 3 Đại đoàn 350 lúc này đóng quân ở thôn Phú Nhị, tôi được biên chế vào Đại đội 1 Tiểu đoàn 3 do anh Luân làm Chính trị viên.

Một hôm anh Luân, Chính trị viên cho gọi tôi lên và nói:

- Theo yêu cầu của tổ chức, đồng chí chỉ huy số anh em hành quân về Đại đoàn 320 tiếp tục công tác.

Anh Luân chỉ nói vậy. Sau này tôi được biết, vì trong lý lịch của tôi có thời gian tôi bị địch bắt, nên không đủ tiêu chuẩn ở một đơn vị bảo vệ Trung ương.

Tôi chào anh Luân và tổ chức anh em hành quân trở lại Thái Bình. Khi đến Hoài Đức, một số anh em người Hà Nội nói với tôi:

- Anh cho chúng em về qua nhà, xem tình hình gia đình thế nào. Chúng em chỉ ở nhà một đêm thôi, trưa mai chúng em có mặt (hôm đó là ngày 15 tháng 10 năm 1954).

Suy nghĩ một lúc, vì trong giấy cũng không quy định về thời gian có mặt ở đơn vị. Hơn nữa, anh em xa nhà đi chiến đấu cũng hơn 4 năm cả rồi, nên tôi đồng ý. Tôi nói:

- Thôi được, tôi giải quyết cho các cậu về tranh thủ, chỉ nghỉ ở nhà một đêm. 12 giờ trưa mai tất cả đều phải có mặt, không ai được vin lý do này lý do khác vắng mặt. Bây giờ hòa bình rồi chắc chắn đơn vị sẽ giải quyết cho anh em về thăm nhà.

Tất cả đều hứa sẽ có mặt đúng giờ. Anh em đi rồi, còn một mình, tôi cũng tranh thủ về qua nhà. Tôi đeo chiếc ba lô, bên hông đeo khẩu súng ngắn, tôi vẫy một chiếc xe con chở khách, lái xe dừng lại, tôi lên xe. Xe chạy qua Phùng về Sơn Tây, tôi hỏi:

- Xe của bác có qua xã Đại Đồng không?

Bác lái xe từ tốn nói:

- Xe có chạy qua Đại Đồng, đến chỗ nào ngài xuống thì bảo tôi.

Tôi cảm ơn bác lái xe.

Xe đến xã Đại Đồng, tôi nói với người lái xe:

- Bác cho tôi xuống đây.

Tài xế cho xe chạy từ từ rồi dừng lại. Vì sốt ruột gặp gia đình tôi mở cửa nhảy vội xuống, loạng choạng suýt ngã.

Người phụ xe cuống quýt hỏi:

- Ngài có làm sao không?

- Tôi không việc gì, cảm ơn các bác.

Về đến Rộc Vạo (cánh đồng làng) trời đã nhá nhem tối, tôi gặp ông bếp Kẻng. Trước đây ông đi lính cho Pháp. Khi Pháp xâm lược lần 2 ông làm phó lý tề nên người làng gọi là phó Kẻng, ông này tham gia vào vụ bắt tôi và một số người khác.

Nhận ra tôi, thấy tôi đeo súng ngắn, ông ta chắp tay van xin rối rít:

- Ông tha tội cho tôi, kỳ đó bắt ông tôi cũng chỉ làm theo lệnh.

- Ông đứng dậy đi, đừng làm như vậy. Điều quan trọng là ông cải tạo tốt, sống lương thiện thì cách mạng khoan hồng, không ai trả thù ông đâu...

Tôi rảo bước về nhà. Trời vừa tối, đến cổng tôi nhìn thấy ánh sáng từ ngọn đèn dầu để trong nhà hắt ra. Mấy đứa em thấy tôi gọi:

- Bố ơi! Có anh bộ đội vào nhà mình.

Bố tôi chạy vội ra sân, nhận ra tôi, ông reo lên:

- Mẹ nó ơi! Các con ơi. Thằng Tiến nó về đây này!

Bố tôi đỡ chiếc ba lô của tôi để xuống chông. Hai tay ông nắm hai vai tôi ngắm nghía:

- Rắn rỏi lắm, con có bị thương ở đâu không?

- Có bố ạ. Nhưng các vết thương đã lành cả rồi.

- Con về có được lâu không?

- Con tranh thủ qua nhà thăm bố mẹ và các em một đêm thôi. Sáng mai con đã phải đi rồi.

- Thế là tốt rồi. Nhiệm vụ quân sự mà.

Tin tôi đi bộ đội trở về loang nhanh khắp xóm. Các ông bà, cô chú và các em kéo đến mỗi lúc một đông.

Mọi người thi nhau hỏi, tôi không kịp trả lời. Ai cũng mừng là tôi còn sống trở về, lại trưởng thành là cán bộ.

 

Đến khuya, đợi mọi người ra về hết, tôi mới đi rửa mặt, ăn cơm. Nhà tôi lúc này rất nghèo, không có gạo ăn. Mẹ tôi phải sang hàng xóm vay mấy bơ gạo về nấu cho tôi. Nhà có gà mái đang đẻ, bà lấy hai quả trứng nấu canh cà chua cho tôi ăn. Tôi thương bố mẹ và các em quá, nhìn mấy đứa xanh xao mà tim tôi thắt lại.

Sáng hôm sau, mẹ tôi dậy sớm, nấu cơm cả nhà cùng ăn. Ăn xong, tôi chào bố mẹ và các em hành quân bộ đến nơi hẹn. 12 giờ mọi người đều có mặt đầy đủ, chúng tôi hành quân về Thái Bình.

Khi chúng tôi về đơn vị thì trung đoàn đã tiếp quản thị xã Thái Bình, tiếp tục làm nhiệm vụ bảo vệ công sở và các cơ sở kinh tế, văn hóa trong thị xã. Lúc này tôi được điều về làm Đại đội trưởng Đại đội 28 Tiểu đoàn Thanh Lũng đóng quân tại xã Hiệp Lực, thị trấn Ninh Giang luyện tập quân sự, chuẩn bị tiếp quản Khu 300 ngày (Hải Phòng).

Trước khi vào tiếp quản thành phố Hải Phòng "Khu tập kết 300 ngày" ta tổ chức tiếp quản một số khu vực vòng ngoài. Ngày 28 tháng 4 năm 1955, Trung đoàn 64 tiếp quản Quảng Yên. Ngày 10 tháng 5 lực lượng Đại đoàn 320 còn lại tiếp quản thị xã Kiến An.

Sáng ngày 13 tháng 5, Đại đoàn 320 do đồng chí Hoàng Sâm - Tư lệnh, đồng chí Phạm Ngọc Hồ - Chính ủy đại đoàn tiến vào thành phố Hải Phòng tiếp quản nơi tập kết cuối cùng của quân đội Pháp và bè lũ tay sai. Cánh quân Đại đoàn bộ, Trung đoàn 48 và các tiểu đoàn trực thuộc qua cầu Niệm và cầu Rào vào thành phố. Cánh quân của Trung đoàn 52 từ Quý Cao theo đường 10, qua cầu Niệm vào phía tây nội thành tiếp quản trại bảo an binh, sân bay Cát Bi, sau đó tiến xuống Đồ Sơn. Cánh quân của Trung đoàn 64 từ Quảng Yên vượt qua bến Rừng (sông Bạch Đằng) qua Thủy Nguyên vào thành phố.

Quân ta đi đến đâu, ảnh Bác Hồ, rừng cờ rừng hoa với hàng phượng đỏ rực đường phố, trong niềm hân hoan đón chào của hàng vạn nhân dân thành phố cảng. Chúng tôi triển khai chiếm lĩnh các vị trí, nhiệm sở được phân công cho đến khi chiếc tàu Đi-rin Boóc-đô chở những tên lính viễn chinh Pháp cuối cùng rời khỏi bến cảng. Thành phố Hải Phòng được giải phóng, kết thúc cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược trên đất nước ta.

Sau ngày tiếp quản đại đội đóng quân ở làng Phụng Pháp ngoại ô Hải Phòng thuộc huyện An Hải, sau về đóng ở sân bay Cát Bi. Tổ chức lực lượng tiếp quản thành phố, cán bộ chỉ huy chúng tôi đã sát cánh cùng chính quyền địa phương giải quyết hàng trăm vụ việc phức tạp, chặn đứng các hành động gây tội ác, nạn cướp giật... Sau đó là ổn định đời sống nhân dân, nhanh chóng khôi phục các cơ sở sản xuất công nghiệp, thủ công nghiệp. Trong những ngày này, cán bộ, chiến sĩ chúng tôi không nề hà gian khổ, luôn giữ vững phẩm chất tốt đẹp của "Bộ đội Cụ Hồ", chấp hành nghiêm kỷ luật quân đội, có ý thức tổ chức kỷ luật và tinh thần tự giác cao.

Ngày 26 tháng 9 năm 1955, một cơn bão lớn đổ bộ vào thành phố Hải Phòng, đê điều bị vỡ, đe dọa tính mạng của người dân trong vùng. Các chiến sĩ Đại đoàn Đồng Bằng lại dầm mình trong mưa bão giúp địa phương cứu người, cứu tài sản của nhân dân bị nước cuốn trôi. Bão tan, nước rút, cán bộ, chiến sĩ chúng tôi lại cùng người dân khắc phục hậu quả xử lý đê thoát nước mặn, đắp những đoạn đê vỡ, sửa chữa nhà cửa, làm vệ sinh môi trường.

Nhân dân Hải Phòng còn giữ mãi hình ảnh người chiến sĩ Trung đoàn "giúp dân đánh giặc" giản dị, trẻ trung, giàu lòng nhân ái.

Tết năm 1955, tôi được về quê ăn Tết. Vì có thời gian nên tôi đến chào bà con, cô bác trong làng. Một hôm trên đường về nhà, tôi gặp Vũ Thị Hồng Vân, người cùng thôn. Chúng tôi biết nhau từ tháng 10 năm 1946 khi đó Vân là nhi đồng mà tôi là huynh trưởng phụ trách thiếu nhi xã. Bố Vân là ông Vũ Tích Phúc, mẹ Đỗ Thị Thạch. Nhà Vân có hai chị em gái. Bố Vân sau Cách mạng tháng Tám làm Chủ tịch huyện Cẩm Phả, sau đó làm Phó Chủ tịch khu Hồng Quảng. Giữa những năm 60 thế kỷ XX, ông được điều về công tác ở Văn phòng Chính phủ. Vân xinh xắn, trắng trẻo, tóc dày và đen, gặp tôi Vân nói:

- Em nghe người ta nói anh sắp lấy vợ à?

Tôi lảng chuyện hỏi:

- Em đã có ai chưa?

- Em xấu thế này, ai người ta yêu.

- Hiện nay em làm gì, ở đâu?

- Em là nhân viên Văn phòng Ủy ban Hồng Quảng.

Từ đó chúng tôi bắt đầu có cảm tình với nhau và thường xuyên viết thư cho nhau. Tết năm 1956 tôi về phép, gặp Vân, tôi sang nhà chơi, gặp bác Phúc bố Vân tôi ngỏ ý. Ông đồng ý. Tôi về báo cáo với bố mẹ tôi và tối mùng 5 tết ông chú họ tôi sang nhà Vân xin dạm hỏi.

Tháng 5 năm 1956, tôi được cử đi học Trường Sĩ quan Lục quân khóa 10. Thời gian này, đồng chí Lê Trọng Tấn làm Hiệu trưởng, đồng chí Lê Quang Hòa làm Chính ủy. Nhà trường đóng quân ở sân bay Bạch Mai. Tôi được biên chế vào Đại đội 10 Tiểu đoàn 3 do anh Hoàng Tùng làm Đại đội trưởng, anh Lê Gần - Chính trị viên, anh Hoàng Cao Ngôn là Tiểu đoàn trưởng, anh Nguyễn Ngọc Diệp là Chính trị viên. Tiểu đoàn 3 của tôi ở trong một gara máy bay sân bay Bạch Mai.

Tại lễ khai giảng khoá 10 Trường Sĩ quan Lục quân, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đến dự và phát biểu. Tôi nhớ mãi lời Đại tướng nói: "Nhà trường phải mẫu mực về xây dựng kỷ luật chính quy, chính quy là đồng nhất tất cả, không có vương quốc riêng".

Tuy học ở Bạch Mai, thi thoảng nhà trường lại dùng xe ô tô chở học viên chúng tôi lên lao động xây dựng cơ sở Trường Sĩ quan 200 (Trường Sĩ quan Lục quân) bây giờ. Lúc này, ở đây còn là rừng rậm, nai, hoẵng nhiều. Có lần anh em chúng tôi bắt được cả hoẵng vào doanh trại giữa buổi trưa.

Tôi và Vân yêu nhau từ năm 1955 đến ngày 6 tháng 1 năm 1958 thì tổ chức lễ cưới. Thời gian này, khóa 10 đang ôn thi tốt nghiệp ra trường nên nhà trường chỉ cho tôi nghỉ 3 ngày. Đại đội cử mấy người cùng tiểu đội là Thắng, Năng, Thành và Điệp về giúp tôi.

Nhà tôi thời gian này còn nghèo, chỉ có bốn gian nhà lợp rạ, một gian làm buồng cho mẹ tôi, ba gian nhà ngoài thờ tổ, phải nhờ sân nhà ông An kế bên kê bàn ghế làm lễ cưới. Anh Thắng, anh Năng mang ở đơn vị hai cặp pin cối thắp sáng. Ở nhà mượn hai chiếc đèn măng sông thế là đủ ánh sáng cho cái sân hẹp. Ngày cưới, tôi mặc quần áo bộ đội, Vân mặc áo vét cán bộ thoát ly. Lễ cưới xong mẹ nhường buồng làm phòng tân hôn. Chẳng có chăn ga gối đệm, chỉ có một chăn đơn bộ đội. Cưới xong, hôm sau tôi trở về đơn vị. Vân được nghỉ phép 18 ngày; vì còn nửa tháng nữa nên Vân đến chiêu đãi sở của nhà trường ở Bạch Mai, vợ chồng ở với nhau đến hết phép thì Vân trở về bệnh viện Quảng Yên - Quảng Ninh công tác.

Ngày 31 tháng 1 năm 1959, vợ tôi sinh con trai đầu lòng, đặt tên là Khuất Việt Dũng. Ngày 16 tháng 10 năm 1960, con gái thứ hai Khuất Thu Hồng chào đời. Ngày 31 tháng 7 năm 1962, Vân sinh con trai thứ ba Khuất Sơn Hải (cháu mất khi 5 tuổi). Ngày 22 tháng 10 năm 1967 sinh con thứ tư Khuất Hải Yến (cháu mất năm 17 tuổi - 1984); cuối năm 1970-sinh con gái thứ năm Khuất Hải Oanh và năm 1974 thì chúng tôi có thêm con trai Khuất Việt Hùng.

Tháng 5 năm 1958, tôi thi tốt nghiệp ra trường, là một trong năm người đạt điểm cao nhất khóa.

Ra trường, tôi được điều về Tiểu đoàn 17 - tiểu đoàn huấn luyện thuộc Đại đoàn 320, làm Đại đội trưởng Đại đội 1. Thời gian này anh Phú làm Tiểu đoàn trưởng, anh Hoa làm Chính trị viên. Tháng 12 năm 1958, tôi được phong quân hàm Thượng úy. Công tác ở tiểu đoàn huấn luyện được gần 1 năm, tháng 11 năm 1959, Tư lệnh quân khu quyết định điều tôi về làm giáo viên chiến thuật Trường Quân chính Quân khu 3, do anh Nguyễn Hữu Sở làm Hiệu trưởng. Sau gần 3 năm làm giáo viên ở Trường Quân chính Quân khu 3, tháng 7 năm 1962, trên quyết định tôi đi học khóa 1 Trường Trung cao quân sự. Hiệu trưởng là đồng chí Trần Văn Trà, Hiệu phó là đồng chíHoàng Minh Thảo. Khóa học kéo dài đến tháng 7 năm 1965. Ra trường tôi được điều về làm trợ lý huấn luyện Bộ Tham mưu Quân khu 3, Trưởng phòng Quân huấn là anh Nguyễn Hữu Sở (trước đây anh là Hiệu trưởng Trường Quân chính Quân khu). Một thời gian anh Sở bị bệnh xơ gan cổ trướng, anh Đặng Văn Tý thay làm Trưởng phòng Quân huấn.

Thời gian tôi làm trợ lý huấn luyện, thường xuyên được gặp và làm việc với anh Cao Văn Khánh - Tham mưu trưởng quân khu. Anh Khánh là một trí thức, uyên bác nhưng cũng rất khiêm tốn. Tài liệu huấn luyện do tôi chuẩn bị, tôi đề xuất nhiều phương pháp huấn luyện phân đội nhỏ, anh Cao Văn Khánh rất thích. Những chỗ anh góp ý vào tài liệu bao giờ anh cũng hỏi lại tôi: "Tớ tham gia như thế có được không?".

Những ngày làm trợ lý huấn luyện ở Quân khu tôi được giao nhiệm vụ theo dõi các đơn vị huấn luyện quân đi B. Tôi về Sư đoàn 320, gặp lại anh Kim Tuấn, lúc này làm Sư đoàn phó. Khi anh em trao đổi về chương trình nội dung huấn luyện, anh Kim Tuấn tâm sự:

- Thời kỳ chống càn ở Thái Bình, Ninh Bình, Hà Nam, Hà Đông sở dĩ anh em đánh tốt chính là nhờ huấn luyện động tác cá nhân và phân đội nhỏ tốt. Đánh Mỹ bây giờ khó khăn ác liệt bội phần nên công tác huấn luyện bây giờ phải đặc biệt quan tâm huấn luyện kỹ năng chiến đấu cho bộ đội. Phải làm cho anh em thuần thục chiến thuật phân đội nhỏ: tổ ba người, tiểu đội, trung đội, phải rèn luyện thể lực hành quân mang vác nặng cho bộ đội.

Tôi trả lời:

- Vâng, tôi cũng lấy kinh nghiệm chiến đấu thực tế bổ sung cho chương trình, nội dung huấn luyện bộ đội. Phải huấn luyện những nội dung mà chiến trường cần anh ạ.

Anh Kim Tuấn:

- Đúng! Như vậy quan điểm chúng ta gặp nhau, cứ thế mà làm.

Đầu tháng 9 năm 1967, anh Sùng Lãm - Sư đoàn trưởng, anh Lương Tuấn Khang - Chính ủy sư đoàn về Quân khu nhận nhiệm vụ đưa Sư đoàn 320 vào chiến trường Đường 9 -Bắc Quảng Trị chiến đấu. Nhận lệnh xong, anh Sùng Lâm ra về, tình cờ gặp tôi, chẳng rào đón, anh nói:

- Kỳ này sư đoàn đi B, cậu có đi với tớ không?

- Em thích đi chiến đấu lắm. Sư đoàn trưởng đề nghị Quân khu cho em về sư đoàn.

Anh Sùng Lãm quay lại gặp Tư lệnh Quân khu Hoàng Sâm, xin tôi về làm Tham mưu trưởng Trung đoàn 64. Trung đoàn do anh Trịnh Hùng Thái - Thiếu tá, Trung đoàn trưởng, anh Thái (Tiên Lãng) làm Chính ủy. Ngày 10 tháng 10 năm 1967, tôi có mặt tại Trung đoàn 64 ở khu rừng ở Kim Bôi, Hòa Bình tham gia diễn tập.

Nhằm tiếp tục nâng cao trình độ tác chiến ở địa hình rừng núi, tôi đề xuất với chỉ huy trung đoàn tổ chức cho bộ đội luyện tập hành quân mang vác nặng trên mọi địa hình, thời tiết, đánh địch trong mọi tình huống. Được chỉ huy trung đoàn nhất trí, tôi chỉ đạo cho các tiểu đoàn 7, 8, 9 và các đơn vị trực thuộc, cơ quan trung đoàn bộ thường xuyên rèn luyện mang vác từ 30 đến 35 ki-lô-gam, hành quân trên địa hình rừng núi. Dừng chân là triển khai đào công sự, đào bếp Hoàng Cầm như hành quân chiến đấu thật...

****

Sau hai cuộc phản công chiến lược mùa khô thất bại, thế và lực của quân Mỹ trên chiến trường miền Nam bắt đầu suy giảm. Âm mưu "đánh nhanh thắng nhanh" bị phá sản, kế hoạch hai gọng kìm "tìm diệt" và "bình định" đã tỏ ra mất hiệu lực. Quân Mỹ buộc phải lui dần về thế phòng ngự chiến lược.

Để giữ cho tình thế khỏi tụt nhanh xuống dốc, Giôn-xơn cho tăng cường lính Mỹ, vũ khí và phương tiện chiến tranh sang Việt Nam. Cuối năm 1967, quân Mỹ ở chiến trường miền Nam đã lên tới 480 nghìn tên, gồm 9 sư đoàn và 3 lữ đoàn. Nếu tính cả quân ngụy thì tổng quân số của địch đã tới hơn 1 triệu tên.

Với quan điểm quân sự chủ quan, máy móc, đánh giá so sánh lực lượng nặng về số lượng vật chất mà nhẹ về ý chí, quyết tâm và tài trí của con người, các nhà chiến lược Mỹ cho rằng ta chỉ có khả năng tiến công với quy mô và mức độ hạn chế ở ngoài tuyến phòng ngự của chúng. Tuy nhiên, chúng vẫn nơm nớp lo sợ và dự đoán "một cuộc tiến công lớn ác liệt sắp xảy ra". Giôn-xơn giục Oét-mo-len duyệt các kế hoạch, đặc biệt là kế hoạch về lực lượng dự trữ cơ động để có thể đối phó được với tình hình. Đa số lính Mỹ được lệnh không nghỉ phép trong dịp Tết, chúng yêu cầu quân ngụy cũng làm như vậy.

Về phía cách mạng miền Nam, sau hai mùa khô đọ sức với quân Mỹ, lực lượng ta ngày càng phát triển, kinh nghiệm chiến đấu được tích lũy, trình độ tác chiến càng được nâng cao, thế trận đã tỏa rộng và giăng kín khắp nơi, uy hiếp quân địch từ mọi phía.

Tình hình đó tạo nên thời cơ thuận lợi cả về khách quan và chủ quan để tả khai thác, tạo ra những chuyển biến mới trong chiến tranh. Lời kêu gọi chống Mỹ, cứu nước của Bác Hồ kính yêu vang lên như hồi kèn xung trận: "Không có gì quý hơn độc lập, tự do". Lời Bác Hồ đã trở thành chân lý của thời đại.

Sư đoàn nhận lệnh vào Nam chiến đấu. Ai nấy đều phấn khởi, nhưng ai cũng đều biết muốn đánh thắng Mỹ, ta phải vừa đánh vừa rút kinh nghiệm và phải xây dựng phong cách chiến đấu mới. Lãnh đạo, chỉ huy các đơn vị chúng tôi đều có nghị quyết nêu rõ phương hướng: Nhanh chóng nâng cao chất lượng, vững về ý chí, mạnh về tổ chức, thực hiện bằng được khẩu hiệu: Đi nhanh, đi gọn, đến đủ, đến chiến trường là chiến đấu ngay được.

Ngày 5 tháng 11 năm 1967, đoàn cán bộ cấp trưởng từ tiểu đoàn trưởng trở lên do Sư đoàn trưởng Sùng Lãm và Chính ủy Lương Tuấn Khang dẫn đầu được lệnh đi trước vào gặp Bộ Tư lệnh Mặt trận B5 để nhận nhiệm vụ.

Ngày 27 tháng 12 năm 1967, đồng chí Đàm Quang Trung thay mặt Bộ Tư lệnh Mặt trận B5 chính thức giao nhiệm vụ cho Sư đoàn 320 như sau: "Độc lập tác chiến trên hướng thứ yếu của chiến dịch. Tiêu diệt sinh lực địch, chủ yếu là Mỹ; thường xuyên cắt đứt sự vận chuyển của địch trên đường số 9; giam chân, thu hút lực lượng địch, kết hợp chặt chẽ với toàn miền và hướng chủ yếu của Mặt trận là Khe Sanh. Đẩy địch ở Khe Sanh vào tình trạng bị cô lập; xây dựng, giúp đỡ chính quyền địa phương, rèn luyện đơn vị càng đánh càng mạnh, càng đánh càng trưởng thành.

Như vậy, phạm vi hoạt động của sư đoàn là đường 9 - Bắc Quảng Trị, nằm dọc phía nam sông Bến Hải. Thời kỳ thực dân Pháp xâm lược nước ta, chúng lập nên một số đồn điền cao su và hàng loạt đồn bốt dọc hai bên đường. Từ khi đế quốc Mỹ trực tiếp tiến hành chiến tranh xâm lược miền Nam nước ta, chúng sớm nhận ra vị trí chiến lược của con đường này. Đầu năm 1966, Mỹ - ngụy đã thiết lập một hệ thống căn cứ phòng ngự nối tiếp nhau dọc đường số 9 với gần 2 vạn quân Mỹ - ngụy, bao gồm những đơn vị thiện chiến nhất.

Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của bộ trưởng quốc phòng Mỹ Mác Na-ma-ra, với ý đồ "chặn đứng mọi nguồn tiếp tế từ miền Bắc vào miền Nam" chúng tiến hành xây dựng hàng rào điện tử Mác Na-ma-ra với hệ thống vật cản dày đặc, các thiết bị trinh sát điện tử mặt đất và trên không hiện đại bố trí liên hoàn, trong khu vực có chiều dài khoảng 100 ki-lô-mét, rộng 10 - 20 ki-lô-mét từ cảng Cửa Việt lên đường 9, tới biên giới Việt Nam - Lào sang Mường Phìn (Lào). Với lực lượng sửdụng khoảng 2 sư đoàn bộ binh, cùng lực lượng lớn pháo binh, xe tăng, thiết giáp và sự yểm trợ tối đa của không quân... phòng tuyến Mác Na-ma-ra được Mỹ cho là bất khả xâm phạm.

Ở đường 9 - Bắc Quảng Trị, trước sự tiến công liên tục của các lực lượng ta, quân Mỹ lập ra ba cụm cứ điểm ở Khe Sanh, Tà Cơn, Hướng Hóa và Làng Vây, nằm trong tuyến phòng thủ đường 9 của Mỹ ở phía tây, giáp biên giới Việt - Lào. Quân Mỹ ở đây thường xuyên có một vạn tên, gồm 4 tiểu đoàn lính thủy đánh bộ, các lực lượng pháo binh, thiết giáp.

Sau khi nhận lệnh của Bộ Tư lệnh Mặt trận B5, Đảng ủy Sư đoàn 320 họp, đề ra phương hướng lãnh đạo đơn vị xây dựng quyết tâm đánh thắng trận đầu. Ta vừa đánh vừa tích lũy kinh nghiệm vừa tìm hiểu đối tượng tác chiến, tìm hiểu chiến trường, tiến tới xây dựng cho được phong cách tác chiến của một sư đoàn chủ lực cơ động.

Về cách đánh, sư đoàn chủ trương dùng các phân đội nhỏ, trang bị mạnh, tổ chức trận địa chốt chặn trên đường 9, buộc địch phải nống ra giải tỏa. Lúc đó, các đơn vị chủ lực bố trísẵn hai bên đường sẽ vận động lên tiêu diệt, lấy đánh địch ngoài công sự là chính.

Trung đoàn 64 được giao đánh trận mở đầu của sư đoàn, sau khi thống nhất trong Ban chỉ huy trung đoàn, anh Trịnh Hồng Thái - Trung đoàn trưởng gọi tôi lên giao nhiệm vụ. Anh nói:

- Ban chỉ huy thống nhất giao cho anh đi với Tiểu đoàn 7. Trước mắt anh cùng cán bộ cấp trưởng đại đội, tiểu đoàn trinh sát địa hình đoạn Động Mã, huyện Cam Lộ. Động Mã là một dãy điểm cao nằm sát đường 9 gồm các mỏm 322, 288, 166 và một phần của điểm cao 544 nối tiếp nhau như một bức tường án ngữ phía bắc đường 9. Anh chọn nơi bố trí trận địa chốt chặn và bố trí đội hình đánh quân giải tỏa.

Tôi hỏi anh Thái:

- Các hướng phối hợp như thế nào để tôi biết làm công tác hiệp đồng.

Anh Thái:

- Tôi sẽ cho Tiểu đoàn 8 vào đứng chân ở đông nam Cù Đinh (khu vực điểm cao 182) sẵn sàng đánh địch ra ứng cứu trên đường 9. Trên hướng đường 76, Sư đoàn sẽ điều Trung đoàn 48 đứng chân tại đây giữ bên sườn cho Trung đoàn 64, đồng thời nghiên cứu chi khu quân sự Cam Lộ, chuẩn bị cho nhiệm vụ tiếp theo.

Nói xong, anh Thái hỏi tôi:

- Nhiệm vụ như vậy, anh thấy thế nào?

- Báo cáo anh, nhiệm vụ anh giao đã rõ, tôi hứa sẽ cùng anh em tiểu đoàn hoàn thành.

Tôi tới Tiểu đoàn 7, gặp anh Trần Ngọc Chung, Tiểu đoàn trưởng, tôi nói ý định của chỉ huy trung đoàn với Chung. Sáng hôm sau đoàn cán bộ đi chuẩn bị địa hình của Tiểu đoàn 7 lên đường. Tôi và anh Chung thống nhất bố trí Đại đội 1 chốt chặn đoạn đường vòng dưới chân điểm cao 288. Đây là khu vực có nhiều lợi thế. Xe địch qua đoạn đường này, nhất thiết chúng phải chạy chậm. Hơn nữa phía trước là sườn núi tạo nên một quãng che đỡ rất lớn. Trận địa vừa bảo đảm bí mật, bất ngờ lại hạn chế được hỏa lực địch. Đồng thời, chúng tôi bố trí các đơn vị khóa đuôi và đánh vào bên sườn. Phương án tác chiến được xác định xong, chúng tôi lệnh cho các đơn vị đưa bộ đội vào xây dựng công sự trận địa. Tiểu đoàn 7 Trung đoàn 64 cùng với các pháo thủ của Tiểu đoàn 14 pháo cối mang vác và Tiểu đoàn 16 súng máy cao xạ 12,7 của sư đoàn cùng một số đơn vị hỏa lực của trung đoàn đã có mặt ở Động Mã xây dựng trận địa đúng thời gian quy định.

Ngày 21 tháng 1 năm 1968, Bộ Tư lệnh Mặt trận B5 ra lệnh nổ súng tiến công tiêu diệt địch ở tập đoàn cứ điểm Khe Sanh. Sư đoàn 304 phối hợp với bộ đội địa phương huyện Hướng Hóa tiến công tiêu diệt chỉ khu quân sự địch ở Khe Sanh.

Để phối hợp tiến công trên toàn Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị, buộc quân Mỹ phải đối phó ở nhiều nơi, tạo điều kiện cho các đơn vị ở Mặt trận Khe Sanh phát triển, Bộ Tư lệnh Mặt trận B5 lệnh cho Sư đoàn 320 cắt đường số 9.

Sau khi tôi và Trần Ngọc Chung đi kiểm tra một lượt các đơn vị, chúng tôi nhắc lại các quy định hiệp đồng: khi nghe súng ở phía Động Mã chặn quân địch các đơn vị mới được nổ súng. Nhìn bộ đội vẻ mặt ai cũng háo hức chờ đợi giờ phút xung trận, tôi và Chung yên tâm về sở chỉ huy.

5 giờ 30 phút sáng ngày 24 tháng 1 năm 1969, một chiếc L.19 rì rì bay tới, lượn một vòng trên vùng trời Thiện Xuân rồi bay về phía tây. Đến 8 giờ, một trung đội Mỹ từ căn cứ 241 kéo ra, vừa đi vừa dò mìn. Không phát hiện được gì, chúng quay trở về căn cứ.

11 giờ trưa, Bộ Tư lệnh Sư đoàn 320 thông báo cho chỉ huy Trung đoàn 64: Một đoàn xe địch từ Đông Hà một số theo đường 1 đang kéo lên Dốc Miếu, hơn chục chiếc rẽ vào đường 9 đến An Thái rồi nằm lại đó. Nhận được tin, tôi điện báo anh Chung cho bộ đội chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu. Bỗng từng loạt pháo ở Bái Sơn, Đầu Mầu và các căn cứ xung quanh dồn dập bắn dọc đường 9 từ núi Kiếm cho tới cầu Thiện Xuân. Một số chiến sĩ ta bị thương vong. Tôi nhắc Chung động viên bộ đội bình tĩnh, kiên trì chờ đợi và giữ bí mật đến cùng.

14 giờ 30 phút, đoàn xe địch tám chiếc bắt đầu dẫn cự ly đi vào đoạn đường nơi bố trí Đại đội 1 Tiểu đoàn 7 chốt chặn, có nhiều vật che khuất. Tiếng động cơ ầm ĩ mỗi lúc một rõ. Chờ cho xe địch vào đúng cự ly đã định, ba phát súng AK làm lệnh nổ súng vang lên từ đồi Động Mã, xạ thủ B.40 Thắng nhằm chiếc đi đầu bóp cò. Một vệt lửa màu da cam chụp lấy chiếc xe. Tiểu đội trưởng Sỹ dẫn đầu tiểu đội xông lên, liên tiếp bắn cháy xe thứ hai, thứ ba và thứ tư. Ở hướng Trung đội 2, dưới sự chỉ huy của Trung đội trưởng Cử, các chiến sĩ ta cũng đồng loạt nổ súng, diệt thêm 3 chiếc xe nữa của địch.

Tôi được anh em kể lại, quân Mỹ hoàn toàn bị bất ngờ trước đòn tiến công của cán bộ, chiến sĩ ta, số lớn bị tiêu diệt, số còn lại nhảy ào xuống đường, lợi dụng thành xe, ụ đất bên đường chống cự. Chúng vừa bắn, vừa lui dần về căn cứ 241. Các chiến sĩ Tiểu đoàn 7 đã bắn từng loạt đạn chính xác, diệt hết toán địch này đến toán địch khác. Còn hơn hai chục tên Mỹ sống sót co cụm lại phía bên kia đường chống trả quyết liệt. Trung đội trưởng Cử lệnh cho tổ trung liên của Hoan cơ động lên bắn yểm hộ cho trung đội xung phong. Khẩu trung liên trong tay Hoan từng chập rung lên nhả đạn xối xả vào đội hình quân Mỹ làm chúng nháo nhác, bỏ chạy tán loạn. Vừa lúc đó, Tiểu đội trưởng Sỹ bị thương nặng vào bụng, khẩu trung liên của Hoan lại bị tắc. Hoan giao súng cho chiến sĩ Quỳ, anh lao lên đỡ lấy Sỹ. Đang băng bó cho tiểu đội trưởng, chợt Hoan nhìn thấy một tên Mỹ cao lênh khênh, tay cầm khẩu súng ngắn vừa chạy vừa bắn. Đoán là tên chỉ huy, Hoan gọi Quỳ đưa Sỹ về phía sau, rồi lao đi đuổi theo tên Mỹ. Với động tác giả, Hoan tung hòn đá, tên Mỹ tưởng là lựu đạn của bộ đội ta vội nằm lăn ra tránh. Nhanh hơn tên Mỹ, Hoan tung người đè sấp lên tên Mỹ, hai tay luồn vào cổ nó siết chặt. Sau một hồi vật lộn với tên lính Mỹ to béo, Hoan với nhanh được con dao vừa khỏi tay tên Mỹ, vùng dậy lao vào đâm trúng ngực nó. Tên Mỹ mắt trợn trừng rồi ngã vật sang một bên. Vừa lúc đó, cả tiểu đội có mặt.

Trên đường, hơn ba chục xác Mỹ nằm đủ kiểu. Đoàn xe địch bốc cháy rừng rực. Các chiến sĩ nhanh chóng thu vũ khí, trở lại khẩn trương củng cố trận địa.

Trận phục kích của Tiểu đoàn 7 thắng lợi. Chúng tôi nhanh chóng xốc lại đội hình, đưa Đại đội 1 lên giáp núi Kiếm sẵn sàng đánh địch giải tỏa; Đại đội 3 sẵn sàng đánh vận động.

Đúng như dự kiến của ta, trong lúc Đại đội 1 đang cơ động thì pháo binh địch bắn dồn dập trùm lên mặt đường 9 và hai bên khu vực vừa nổ súng. Hết đợt bắn pháo, năm chiếc máy bay A.37 thay nhau bổ nhào trút bom phát quang, bom cháy. Khu vực trận địa trước đó cây cối xanh tươi chẳng mấy chốc đã trở thành bình địa. Lúc này Đại đội 1 đang triển khai đào công sự ở vị trí mới, cách trận địa cũ 800 mét, chờ địch đánh tiếp.

Gần tối, quân Mỹ cho là ta đã bị tiêu diệt nếu không cũng phải dẫn ra xa đường, chúng liền cho một đại đội Mỹ có hai xe tăng từ căn cứ 241 tiến ra nhặt xác đồng bọn. Ở đây ta bố trí một trận địa ĐKZ 75 do anh Việt Quang, phó ban pháo binh sư đoàn chỉ huy đã bắn cháy cả hai chiếc xe tăng địch. Lợi dụng thời cơ địch đang nháo nhác, Tiểu đoàn trưởng Trần Ngọc Chung lệnh cho Đại đội 1 khóa đuôi, Đại đội 3 vận động lên tiến công đại đội quân Mỹ. Cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn 7 chia cắt quân Mỹ mà diệt. Đội hình quân Mỹ rối loạn, lớp chết, lớp bị thương, kêu la inh ỏi. Một số tên sống sót khiếp sợ, chống cự yếu ớt rồi quay đầu chạy về căn cứ, bỏ mặc đồng bọn đứa chết, đứa bị thương nằm la liệt trên đường.

Như vậy, mới ngày đầu ra quân, Tiểu đoàn 7 Trung đoàn 64 đã đánh hai trận xuất sắc, diệt 8 xe quân sự, có 2 xe tăng và hơn 100 tên Mỹ.

Tin Tiểu đoàn 7 thắng lớn truyền về sở chỉ huy trung đoàn, không khí phấn khởi lộ rõ trên nét mặt mọi người. Thế là, ngay trong trận đầu các chiến sĩ Tiểu đoàn 7 đã khẳng định khả năng đánh Mỹ và thắng Mỹ của ta. Chúng tôi điện báo cáo về Bộ Tư lệnh sư đoàn. Chỉ huy sư đoàn nhận định: Ta mới chỉ dùng một bộ phận của Trung đoàn 64 cắt đường 9 mà đã tiêu diệt gần một đại đội Mỹ và đoàn xe địch đã phải sử dụng một số lượng rất lớn pháo binh và máy bay để chống đỡ và dùng lực lượng ra giải tỏa. Ta còn trụ ở đây, nhất định địch phải đến. Chúng không thể để tắc đường 9 vì bọn Mỹ ở Khe Sanh đang kêu cứu.

Các sư đoàn 304, 325 và các đơn vị phối thuộc trên Mặt trận Khe Sanh ngày một siết chặt hơn nữa vòng vây. Tiếng súng phối hợp của Sư đoàn 320 ở phía đông khiến cho quân Mỹ càng thêm lúng túng.

Đêm 24 tháng 1 năm 1968, Sư đoàn trưởng Sùng Lãm điện chỉ thị cho chỉ huy Trung đoàn 64: Tiếp tục cho Tiểu đoàn 7 củng cố trận địa, cùng với lực lượng của trung đoàn sẵn sàng đánh quân giải tỏa. Đồng thời cho Tiểu đoàn 15 công binh đánh mìn phá cầu Thiện Xuân, thực hiện bằng được ý định cắt đường số 9, tiêu diệt quân giải tỏa, cô lập lực lượng địch ở Khe Sanh để chủ lực mặt trận tiêu diệt chúng.

Thực hiện chỉ thị của Sư đoàn trưởng, chúng tôi lên kế hoạch đánh cắt giao thông đường 9 cho Tiểu đoàn 7 đoạn cầu Thiện Xuân - Động Mã. Từ ngày 25 tháng 1, đường 9 hoàn toàn bị Tiểu đoàn 7 Trung đoàn 64 cắt đứt.

Ngay chiều 25 tháng 1 năm 1968, Cốt-xman, tư lệnh lính thủy đánh bộ Mỹ ở miền Nam Việt Nam đi cùng Uy-liêm Giôn, tướng hai sao, tư lệnh sư đoàn 3 lính thủy đánh bộ Mỹ -lực lượng bảo vệ đường 9 vội vã bay ra quan sát đường 9. Ngồi trên máy bay nhìn xung quanh khu vực cầu Thiện Xuân - Động Mã nham nhở hố bom, đạn pháo và đoàn xe bị cháy còn nằm trên đường, Cốt-xman hiểu ra rằng đây không phải là quân du kích mà là quân chính quy Bắc Việt. Ông ta ra lệnh chiếm điểm cao 105 đối diện với điểm cao 241 về phía bắc.

Theo lệnh cấp trên, ngày 26 tháng 1, Uy-liêm Giôn điều tiểu đoàn 3 lữ đoàn 4 lính thủy đánh bộ từ Đông Hà ra Cam Lộ, sẵn sàng đi ứng cứu, đưa tiểu đoàn 2 lữ đoàn 4 từ Dốc Miếu về gần căn cứ 241. Chiều ngày 26 tháng 1, tiểu đoàn 2 đã mon men tới chân điểm cao 105, phía bắc đường 9. Ý định của chúng là tiến công trận địa chốt Động Mã của Tiểu đoàn 7, đẩy lực lượng của ta ra xa, kết hợp với quân Mỹ ở căn cứ 241 bảo vệ đoạn đường 9 này.

Nắm được tình hình địch và ý định của ta, tôi điện cho anh Trần Ngọc Chung - Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 7. Tôi nói:

- Hiện nay tiểu đoàn 2 lữ đoàn 4 lính thủy đánh bộ Mỹ đang ở khu vực điểm cao 105, chúng mới đến, công sự còn sơ sài, ý định của trung đoàn là dùng Tiểu đoàn 7 và Tiểu đoàn 8 tập kích tiểu đoàn Mỹ này ngay trong đêm. Anh cho bộ đội chuẩn bị, tổ chức cán bộ và trinh sát vừa hành quân vừa nắm địch.

Ở đầu máy bên kia anh Chung nói:

- Anh báo cáo với chỉ huy trung đoàn là chúng tôi chấp hành ngay.

Quay sang máy Tiểu đoàn 8, tôi nói với anh Cần - Tiểu đoàn trưởng, cũng nội dung như trao đổi với anh Chung. Nghe xong, anh Cần nói sẽ chấp hành ngay.

Cánh quân của Tiểu đoàn 7 bắt đầu hành quân. Đêm tối mịt mù, các chiến sĩ phải bám nhau mà luồn rừng, lội suối. 4 giờ sáng tôi nhận được điện của Chung báo đơn vị đã đến vị trí tạm dừng. Tôi nói với Chung:

- Anh tổ chức nắm địch và lần lượt chiếm lĩnh trận địa báo cáo về sở chỉ huy.

Một lúc sau, Chung điện cho tôi:

- Bộ phận trinh sát phát hiện thấy rải rác có các công sự đào dở, còn để xẻng và mũ sắt, có hố còn cả ba lô và hòm đạn. Theo tôi hiện tượng này chứng tỏ bọn Mỹ còn ẩn nấp đâu đây.

- Anh cho anh em phân tán lùi về phía sau, tổ chức một tổ tiếp tục bò lên xem sao? - Tôi nói.

Quả nhiên, Chung tiến lên khoảng 50 mét, anh phát hiện dưới khe quân Mỹ căng bạt cá nhân nằm ngủ ngả ngớn.

Lúc này tôi nắm được, chỉ có lực lượng Tiểu đoàn 7 tiếp cận được quân Mỹ, Tiểu đoàn 8 chưa bắt được liên lạc. Tôi nói với Chung:

- Thời cơ diệt địch đã tới, anh cho đơn vị nổ súng. Tiểu đoàn 8 nghe tiếng súng sẽ vận động tới chi viện.

Anh Chung hội ý với Chính trị viên Nguyễn Văn Đức và quyết định nổ súng.

Đúng 5 giờ ngày 27 tháng 1, Tiểu đoàn trưởng Chung hạ lệnh nổ súng. Các loại hỏa lực B.40, B.41, lựu đạn, đạn cối 60 ly, 82 ly thi nhau phóng vào nơi quân Mỹ đang ngủ. Ngay từ phút đầu, quân địch bị tiêu diệt phần lớn. Bọn còn lại bị các chiến sĩ ta xông tới dùng AK, lưỡi lê vừa bắn vừa đâm.

Dẫn đầu phân đội mũi nhọn của Đại đội 3 với khẩu tiểu liên cấm lưỡi lê, Bùi Đức Hậu liên tục tay đâm, chân đạp vào những tên Mỹ. Không biết Hậu đã đâm đến tên Mỹ thứ mấy, tay Hậu tê chồn tưởng chừng không cầm nổi súng. Lưỡi lê Bùi Đức Hậu dùng trong trận đánh này đến nay vẫn còn được lưu giữ và trưng bày tại nhà truyền thống của Sư đoàn 320 Binh đoàn Tây Nguyên (Quân đoàn 3).

Bọn Mỹ hầu như không chống cự được. Một số rúc bừa vào các bụi cây ẩn nấp. Một số kịp thoát thân, quay súng lại bắn tứ tung.

Trận đánh diễn ra không đầy 20 phút, số lớn lính Mỹ bị tiêu diệt. Số còn lại co cụm chống cự và đưa lực lượng cứu viện; Tiểu đoàn 8 không đến được, trận chiến đấu kết thúc. Âm mưu chiếm điểm cao 105 để án ngữ mặt đường số 9 của quân Mỹ đã bị thất bại.

Đường số 9 vẫn bị ta cắt đứt, cảng Cửa Việt, thị trấn Đông Hà liên tục bị ta pháo kích. Quân Mỹ ở Khe Sanh ngày càng khốn đốn. Bắc Quảng Trị thực sự là vùng "đất nóng" đối với quân Mỹ. Những đơn vị tinh nhuệ bị giam chân tại chỗ và đang có nguy cơ bị tiêu diệt. Oét-mo-len đã phải quyết định đưa sư đoàn kỵ binh không vận số 1 Mỹ từ An Khê tỉnh Gia Lai ra vùng 1 chiến thuật sẵn sàng ứng cứu cho đường số 9 Bắc Quảng Trị và lấy thêm chiến đoàn 1 thuộc sư đoàn dù ngụy tăng cường cho vùng giới tuyến.

Trong lúc Mỹ - ngụy đang tập trung điều quân đối phó ở Bắc Quảng Trị thì Bộ Tổng tư lệnh phát lệnh tiến công vào các căn cứ then chốt của Mỹ - ngụy trên toàn miền Nam vào dịp Tết Mậu Thân năm 1968.

Để kết hợp với cuộc Tổng tiến công và nổi dậy trên toàn miền, phối hợp với Mặt trận Trị - Thiên - Huế và hướng Khe Sanh, tiếp tục tiến công uy hiếp, tiêu diệt địch trên hệ thống phòng thủ đường số 9, thực hiện giam chân thu hút sinh lực địch, chiều ngày 27 tháng 1 năm 1968, Bộ Tư lệnh Mặt trận B5 lệnh cho Sư đoàn 320 chọn một căn cứ địch trong hệ thống phòng ngự của địch để tiến công, phối hợp với toàn miền. Bộ Tư lệnh Mặt trận B5 chỉ thị: "Phải nổ súng đúng thời gian quy định".

Sau khi cân nhắc, Bộ Tư lệnh Sư đoàn 320 quyết định tiến công tiêu diệt chi khu quân sự Cam Lộ - căn cứ quân sự kiêm hành chính quận lỵ của địch, một mắt xích quan trọng của hệ thống phòng thủ nằm trên ngã ba đường 9 và đường 76, nơi tập trung bọn đầu sỏ ác ôn của ba huyện Gio Linh, Cam Lộ và Hướng Hóa.

Bộ Tư lệnh sư đoàn giao cho Trung đoàn 48 tiêu diệt căn cứ Cam Lộ. Đúng 1 giờ ngày 31 tháng 1 năm 1968 (tức ngày mùng 1 Tết Mậu Thân), Trung đoàn 48 sử dụng lực lượng gồm: Tiểu đoàn 1 được tăng cường 2 khẩu cối 82, hai khẩu ĐKZ 75 và 2 khẩu 12,7 ly nổ súng tiến công căn cứ Cam Lộ. Trước sức tiến công hết sức bất ngờ của ta, địch trong căn cứ hoàn toàn bị động, không kịp đối phó, số bị chết, số bị thương hoặc rút xuống hầm ẩn tránh. Trung đoàn 48 đã loại khỏi vòng chiến đấu 300 tên địch, có 14 cố vấn Mỹ.

Ở phía nam căn cứ Cam Lộ, một số đơn vị địa phương do cán bộ huyện đội Cam Lộ chỉ huy cũng đột nhập diệt gọn trung đội dân vệ, giải thoát 6.000 đồng bào ở khu tập trung. Các hướng tiến công căn cứ Cam Lộ vẫn phát triển tốt. Nhưng sau khi hoàn hồn, bọn sống sót chui được xuống các hầm ngầm cố thủ, gọi pháo bắn vào cứ điểm. Một quả pháo nổ trúng hẩm chỉ huy Tiểu đoàn 1; Tiểu đoàn trưởng Bùi Dung hy sinh, Chính trị viên Nguyễn Ngọc Giao bị thương nặng, cán bộ đại đội lần lượt bị thương vong gần hết. Tuy vậy, cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn còn lại kể cả anh em bị thương vẫn tiếp tục chiến đấu, không rời trận địa.

 

Từ đó cho đến sáng, địch dùng hết đợt pháo này đến đợt pháo khác, bắn trùm lên căn cứ. Gần sáng chúng cho máy bay B.52 rải bom xuống khu vực xung quanh căn cứ Cam Lộ ngăn chặn lực lượng ta. Trời sáng, xét thấy không còn khả năng diệt số địch còn lại trong căn cứ, Bộ Tư lệnh sư đoàn lệnh cho Trung đoàn 48 lui quân. 108 đồng chí cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn hy sinh ta đành để lại Cam Lộ. Khi quân Mỹ tái chiếm được chi khu Cam Lộ, chúng đã dùng máy ủi chôn 108 anh em thành mộ tập thể, nên sau này ta không thể nào phân biệt được ai với ai... Thật đau xót!

Ngày 26 tháng 12 năm 1994, cấp ủy, chính quyền và nhân dân huyện Cam Lộ phối hợp với Sư đoàn 320 xây dựng Bia tưởng niệm ghi danh 108 liệt sĩ. Bia tưởng niệm đặt ở trung tâm thị trấn Cam Lộ, công trình này hoàn thành ngày 30 tháng 4 năm 1995.

Ở Nghĩa trang Quốc gia đường 9 cũng xây một ngôi mộ tập thể ghi danh 108 liệt sĩ của Trung đoàn 48 trong trận đánh vào chi khu quân sự Cam Lộ Tết Mậu Thân 1968.

 

Trở lại chiến trường Quảng Trị, Mỹ - ngụy tuy bị tổn thất lớn trong cuộc Tổng tiến công, nhưng chúng vẫn hung hăng, tiếp tục củng cố hệ thống phòng ngự. Ở một vài nơi, chúng còn liều lĩnh nống ra, hy vọng tạo vành đai an toàn để đỡ những đòn tiến công của ta. Trên đường số 9, quân Mỹ tăng cường các chốt điểm, củng cố các căn cứ, bàn đạp và hạn chế việc giải tỏa. Bị cắt đường bộ, quân Mỹ phải dùng máy bay trực thăng để tiếp tế cho Khe Sanh.

Bộ Tư lệnh Sư đoàn 320 lúc này nhận thấy nếu chỉ bám vào đường 9, cắt đường để nhử địch ra giải tỏa mà tiêu diệt thì khó có cơ hội đánh tiêu diệt lớn được. Muốn đánh lớn, tốt nhất là đưa bộ đội về hướng đông, chặn cảng Cửa Việt, uy hiếp khu vực yết hầu của chúng thì nhất định Mỹ phải đưa lực lượng lớn ra đối phó. Phương hướng hành động của Sư đoàn 320, được Bộ Tư lệnh Mặt trận B5 chấp nhận, cho sư đoàn mở rộng chiến trường sang hướng Đông Hà, Gio Linh, Cửa Việt, luồn sâu vào những khu vực phòng ngự then chốt của địch, tạo thế chia cắt, buộc địch phải đưa lực lượng ra đối phó, tạo thời cơ tiêu diệt sinh lực quân Mỹ.

 

Thực hiện chủ trương trên, Bộ Tư lệnh sư đoàn sử dụng lực lượng như sau: Trung đoàn 64 chúng tôi tiếp tục hoạt động trên đường 9. Trung đoàn 52 tiến về vùng Cửa Việt. Trung đoàn 48 (thiếu Tiểu đoàn 3) phối hợp cả hai hướng khi cần thiết, chủ yếu là hướng Trung đoàn 52. Tiểu đoàn 3 Trung đoàn 48 do Mặt trận B5 điều phối hợp thực hiện kế hoạch V.9 của mặt trận tại khu vực Dốc Miếu.

Cuối tháng 2 năm 1968, các đơn vị trong sư đoàn bắt đầu triển khai lực lượng theo phương hướng hoạt động mới. Đoàn cán bộ Trung đoàn 64 đi chuẩn bị chiến trường qua con suối La La. Dịp này máy bay B.52 đánh rất dữ, một đợt 9 chiếc. Hươu, nai chết nhiều, nên anh em còn gọi suối La La là "suối con hươu". Bộ đội lấy thịt hươu, nai bổ sung vào khẩu phần ăn hàng ngày. Thịt nai hết xào lại luộc, bộ đội ăn thỏa thích.

Tôi được biết, đoàn cán bộ Trung đoàn 52 chuẩn bị chiến trường ở vùng Cửa Việt đã được các du kích và nhân dân huyện Gio Linh tích cực giúp đỡ. Vùng đất lửa Cửa Việt là một vùng cát trắng mênh mông, lơ thơ vài xóm làng bị càn đi quét lại. Cuộc sống đã được chuyển xuống lòng địa đạo. Chiến hào thay cho đường làng ngõ xóm; mỗi người dân thực sự trở thành một chiến sĩ.

14 giờ ngày 1 tháng 3 năm 1968, ba tốp phản lực Mỹ ẩm ẩm lao tới quần đảo một hồi rồi cắt bom xuống làng Mai Xá Thị. Làng xóm, nhà cửa bốc cháy ngùn ngụt.

Sau hơn 1 giờ ném bom bắn phá, bộ binh và xe tăng Mỹ bắt đầu tiến vào. Khi chúng chỉ còn cách tuyến công sự của chiến sĩ Tiểu đoàn 6 Trung đoàn 52 chừng 20 mét, bộ đội ta được lệnh nổ súng bắn cháy liền 2 xe tăng, diệt nhiều tên Mỹ. Quân Mỹ phải dạt ra, chỉ huy tiểu đoàn lệnh cho 3 khẩu cối 82 bắn cấp tập vào đội hình quân Mỹ.

Đến 18 giờ trận đánh kết thúc. Hơn 200 tên Mỹ bị diệt và 5 xe tăng bị bắn cháy. Trận Mai Xá Thị tuy chưa phải là trận tiêu diệt lớn, nhưng có ý nghĩa quan trọng. Đó là trận đầu diệt Mỹ của các chiến sĩ Trung đoàn 52 trên vùng cát trắng. Đó là trận đánh biểu hiện tinh thần quyết đánh Mỹ và thắng Mỹ ở mọi nơi, ngay cả ở những nơi tưởng như hoàn toàn bất lợi cho ta.

 

Ngày 8 tháng 3 năm 1968, Oét-mo-len vội vã lập một cơ quan chỉ huy mới ở Quảng Trị và cử tướng lục quân Rốt-xơn chỉ huy. Khi được tin về những hoạt động của ta ở vùng Gio Linh và Cửa Việt, Rốt-xơn vô cùng lo ngại.

Cửa Việt là nơi gặp nhau của sông Hiếu chảy qua Đông Hà và sông Thạch Hãn chảy qua Quảng Trị, tạo thành một vùng nước rộng có độ sâu bảo đảm cho các loại tàu trên dưới một nghìn ra vào thuận tiện. Trên tuyến phòng thủ Bắc Quảng Trị, quân Mỹ tiến hành việc xây dựng cảng Cửa Việt từ rất sớm và chẳng bao lâu Cửa Việt trở thành cái cuống họng của vùng Bắc Quảng Trị. Xung quanh cảng Cửa Việt đều được quân Mỹ rào kín bằng dây thép gai, các bãi mìn, hệ thống công sự, lô cốt, đèn pha chiếu sáng, tạo thành một tuyến phòng thủ vững chắc. Ngoài biển luôn có tàu chiến neo đỗ với hàng chục nòng pháo bắn cực nhanh, có thể với tới bất cứ khu vực nào trong khu vực cảng và vùng ngoại vi, khi phát hiện lực lượng ta. Ngoài ra còn một đại đội "người nhái" thường xuyên canh phòng khu vực cảng, đề phòng quân ta đột nhập. Vì vậy, khi bị ta đánh ở Mai Xá Thị, thì Rốt-xơn đã nhìn thấy nguy cơ bị địch cắt ở vùng cuống họng này. Ông ta ra lệnh cho sư đoàn 3 lính thủy đánh bộ Mỹ và các lực lượng khác của chúng ở vùng này chuẩn bị hành quân giải tỏa.

Bộ Tư lệnh sư đoàn đã dự đoán trước những phản ứng của địch và chỉ thị cho Trung đoàn 52 chuẩn bị đối phó. Tiểu đoàn 5 Trung đoàn 52 được lệnh bố trí trận địa tại Lâm Xuân hình thành một điểm chốt bảo vệ con đường hành quân vào Cửa Việt, khi được lệnh sẽ tiến công, cắt đứt tuyến đường sông của địch. Lâm Xuân là một làng lớn cách Mai Xá Thị 3 ki-lô-mét. Dân trong làng đã bị dồn vào "ấp chiến lược", hơn một nửa làng xóm bị bom đạn tàn phá nhiều lần, trở nên xơ xác tiêu điều. Khi Đại đội 7 Tiểu đoàn 5 tới bố trí trận địa, người dân còn trụ lại trong làng đã tích cực giúp đỡ bộ đội.

Ngày 29 tháng 3 năm 1968, cơ sở của ta ở Đông Hà báo ra cho biết, dịch tập trung quân khá đông, có khoảng 30 xe tăng và 9 tiểu đoàn Mỹ - ngụy chuẩn bị cho một cuộc càn lớn đánh vào vùng Gio Linh và Cửa Việt.

 

Ngay từ sáng sớm, máy bay phản lực, máy bay trực thăng và máy bay trinh sát của không quân, hải quân Mỹ đã bắt đầu quần đảo trên bầu trời Đông Hà - Cửa Việt. Các căn cứ pháo binh của Mỹ trong khu vực cũng bắt đầu nã đạn. Pháo hạm Mỹ từ ngoài khơi cũng trút xuống từng đợt để củng cố tinh thần cho lính Mỹ chuẩn bị vào trận.

Gần trưa, chúng tập trung về hướng Gio Linh tới 5 tiểu đoàn Mỹ, 2 tiểu đoàn lính ngụy cùng toàn bộ xe tăng nhằm nhổ những trận địa cuối cùng của ta nằm sát nách Đông Hà. Mũi tiến công chủ yếu của địch nhằm vào làng Lâm Xuân.

Sau mấy giờ liền giội bom, nã pháo, mũi tiến công chủ yếu của địch tập trung 8 xe tăng và một tiểu đoàn. Bộ đội ta chiến đấu dũng cảm, bắn cháy 2 chiếc xe tăng; 6 chiếc xe tăng của dịch ở phía sau bắn như vãi đạn vào trận địa của ta rồi cho hai mũi khác đánh vào làng Lâm Xuân.

Tôi được anh em kể lại: Thấy tình hình căng thẳng, Đại đội trưởng Hùng giao nhiệm vụ chỉ huy cho Chính trị viên Đích rồi lao về phía Trung đội 3. Vừa tới trận địa Trung đội 3 cũng là lúc xe tăng địch vừa bắn vừa xông lên. Hai xạ thủ B.41 lúc này đều bị thương. Đại đội trưởng Hùng nắm lấy khẩu B.41 của đồng chí vừa bị thương, lợi dụng khói mù anh chiếm vị trí có lợi bắn liền 3 phát B.41. Một chiếc xe tăng M.41 bị trúng đạn bốc cháy ngùn ngụt. Chiếc còn lại hốt hoảng quay đầu tháo chạy, cán bừa lên cả mấy tên lính Mỹ vừa bị thương.

Để chuẩn bị cho đợt tiến công mới, địch lại cho phi pháo đánh phá dữ dội chừng một tiếng đồng hồ. Một tiểu đoàn Mỹ mặt đỏ như gà chọi hò hét xông lên. Chúng đang ở trong tình trạng bị kích động mạnh vì chúng không ngờ chỉ một trận địa nhỏ với hơn hai chục tay súng mà lại có thể cản bước cả một tiểu đoàn quân Mỹ với sự chỉ viện tối đa của pháo binh và không quân với gần chục chiếc xe tăng M.41 hiện đại.

Tiếng súng Đại đội 7 Tiểu đoàn 5 vẫn vang lên. Thêm một xe tăng nữa của quân Mỹ bị ta bắn cháy. Trận đánh mỗi lúc một quyết liệt. Những đợt tiến công cuối cùng của địch vào Lâm Xuân đã bị bẻ gãy. Hơn 300 tên Mỹ bị loại khỏi vòng chiến đấu, 9 xe tăng bị bắn cháy. Trận địa Lâm Xuân được giữ vững.

 

Trong khi Trung đoàn 52 đang chiến đấu trên vùng cát trắng Lâm Xuân - Lai An thì Trung đoàn 64 chúng tôi cũng thực hiện chủ trương luồn sâu, đánh hiểm kéo địch ra để diệt. Chúng tôi đã bí mật đưa bộ đội vào vùng tứ giác nằm giữa các căn cứ lớn Bái Sơn, Dốc Miếu, Cam Lộ và Đông Hà để phối hợp với Trung đoàn 52.

Để chuẩn bị cho Trung đoàn vào đánh địch trong tứ giác, cán bộ chỉ huy và cơ quan tham mưu trung đoàn chúng tôi đã lập một kế hoạch hết sức chu đáo. Trinh sát Tiểu đoàn 8 được phân công điều tra tìm hiểu tình hình địch, tình hình dân, địa hình ở khu vực tác chiến. Tiểu đoàn 7 tiếp tục đánh cắt giao thông trên đường 9. Tiểu đoàn 9 hoạt động ở An Bình phía nam Quán Ngang. Tiểu đoàn 8 tổ chức trận địa chốt ở Ngã Tư Sòng, cách thị trấn Đông Hà 2 ki-lô-mét về phía bắc - nơi gặp nhau giữa đường số 1 và đường 71. Đồng thời, chúng tôi tổ chức cho Tiểu đoàn 8 xây dựng một chốt ở Ngã Tư Sòng.

Đường 9 tuy không nằm trên ngã tư này nhưng cũng sẽ bị khống chế nếu ta đóng một cái chốt ở đây. Cắm chốt ở Ngã Tư Sòng, ta gây cho địch khó khăn lớn trong việc tiếp tế, vận chuyển, buộc địch phải tung quân ra đối phó. Chốt ở Ngã Tư Sòng sẽ làm đảo lộn sinh hoạt của mấy vạn quân Mỹ - ngụy trên khu vực phòng thủ chiến lược đường 9 - Bắc Quảng Trị.

Chuẩn bị cho bộ đội vào Ngã Tư Sòng chúng tôi tổ chức và giao nhiệm vụ cho Trung đội trưởng trinh sát Vũ Tiến Hoạch chỉ huy hơn chục trinh sát vào xã Cam Vũ điều tra tình hình và chuẩn bị bố trí các trận địa chốt. Sau này, tôi được nghe Hoạch kể lại: Có lần anh cải trang cùng Xã đội trưởng xã Cam Vũ tên là Lan vào Đông Hà, đi dọc trên đoạn đường ta sẽ bố trí các anh quan sát từng gốc cây, mô đất, la cà trong những quán rượu, quán nước để tìm hiểu thêm về địch. Trong khi tìm hiểu quy luật hoạt động của địch, Hoạch phát hiện ra một đại đội thám báo ngụy do tên Đang, trung úy ác ôn khét tiếng chỉ huy, thường hay phục kích cán bộ và du kích của ta vào hoạt động ở gần Ngã Tư Sòng. Bọn này chủ quan, khinh thường du kích, tên Đang tuyên bố: "Sẽ không để một tên Việt cộng nào lọt vào Đông Hà".

Vũ Tiến Hoạch đề nghị chúng tôi cho phối hợp với du kích xã Cam Vũ đánh một trận phục kích tiêu diệt đại đội thám báo này. Tôi báo cáo anh Trịnh Hùng Thái - Trung đoàn trưởng, đề nghị của Hoạch. Anh Thái đồng ý và ra lệnh cho Tiểu đoàn 8 sẵn sàng ra chốt!

3 giờ sáng ngày 27 tháng 4 năm 1968, đại đội thám báo địch đã lọt vào trận địa phục kích của đội trinh sát Trung đoàn 64 và du kích xã Cam Vũ. Chúng triển khai ngay bên đường, sát với đội hình quân ta. Một số chiến sĩ đề nghị nổ súng nhưng Hoạch bàn với Xã đội trưởng Lan đợi đến mờ sáng, khi chúng phục chán rồi, uể oải kéo nhau về sẽ nổ súng. Chúng sẽ bị bất ngờ, trở tay không kịp.

Đúng như dự đoán của Hoạch, bọn thám báo ngụy lúc đầu ra phục còn im lặng, bí mật. Nhưng không phát hiện được ta chúng bắt đầu chủ quan, đứa châm thuốc hút, đứa gọi nhau í ới. Tên đại đội trưởng ra lệnh tập hợp để rút quân. Thời cơ đã đến, Hoạch ra lệnh nổ súng. Hơn một chục khẩu AK đồng loạt quét thẳng vào đội hình quân địch đang tập trung. Sau đó là những quả lựu đạn nổ rền. Khi những tên sống sót chưa kịp hoàn hồn thì các chiến sĩ trinh sát ập tới, nhằm từng đứa mà xỉa AK. Địch nằm chết đè lên nhau, vài tên sống sót cõng tên trung úy, đại đội trưởng bị thương về Đông Hà. Theo tin của cơ sở ta ở Đông Hà thì đại đội thám báo ngụy này còn sống sót 5 tên. Tên Đang bị thương nặng vào viện mấy ngày hôm sau cũng chết.

Đêm hôm sau (28 tháng 4), Tiểu đoàn 8 đưa một trung đội tăng cường do Trung đội trưởng Nguyễn Đình Cộng chỉ huy ra xây dựng trận địa ở Ngã Tư Sòng. Chúng tôi tăng cường cho Trung đội này 2 khẩu 12,7 và tổ chức cho anh em cưa gỗ từ nơi tập kết vận chuyển ra để xây dựng hầm chữ A. Được sự hướng dẫn của trinh sát và du kích xã Cam Vũ, ngay trong đêm, hệ thống công sự, hầm hào trận địa chốt Ngã Tư Sòng đã được xây dựng xong. Cùng với chốt ở Ngã Tư Sòng, chúng tôi còn kịp cho xây dựng ba chốt khác ở Kim Dâu, Phú Hậu và An Bình tạo thành một thế trận liên hoàn.

Trưa ngày 29 tháng 4, hai đại đội Mỹ tiến về Ngã Tư Sòng để thông đường. Đến gần chốt của ta, quân Mỹ dừng lại dùng cối bắn thăm dò. Chúng tôi nói với Nguyễn Đình Cộng đó mới chỉ là đòn thăm dò. Hãy chờ quân Mỹ tiến vào gần mới nổ súng.

Địch bắn mấy trăm quả cối, không thấy ta phản ứng gì, chúng kéo quân về. Quân Mỹ vừa rút quân đi thì trực thăng vũ trang kéo đến, vừa phóng rốc két vừa nghiêng ngó thám sát.

13 giờ, hai đại đội Mỹ quay trở lại, triển khai quanh khu vực Cam Vũ. Đến 15 giờ, 12 xe ô tô chở đẩy lính ẩm ẩm chạy từ Quảng Trị ra Đông Hà, qua cầu sắt tiến về phía Ngã Tư Sòng.

Đợi cho xe địch vào đúng tầm bắn, hai khẩu 12,7 của ta đồng loạt nổ súng. Chiếc xe đi đầu lật nhào, chiếc thứ hai xẹp lốp đứng chết dí. Quân Mỹ trên cả hai xe bị văng ra đường, đứa chết, đứa bị thương kêu la inh ỏi.

Bị đòn bất ngờ, bọn Mỹ ở Đông Hà - Cửa Việt choáng váng. Quân Mỹ huy động hàng trăm khẩu pháo bắn về Ngã Tư Sòng. Lần đầu tiên tôi được tận mắt thấy pháo binh Mỹ với các cỡ pháo từ 105 đến 155 thi nhau chụp xuống từng đợt, từng đợt vài chục quả đạn. Chúng thay nhau bắn liên hồi xuống khu vực Ngã Tư Sòng.

Ngay trong đêm, bất chấp những trận mưa pháo, Tiểu đoàn 8 tiếp tục đưa lực lượng vận tải vào thu dọn chiến lợi phẩm, tiếp tế lương thực, đạn dược và tải thương binh ra. Lường trước những phản ứng sẽ quyết liệt hơn vào ngày hôm sau, chúng tôi điện cho anh Cần - Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 8 tăng cường cho chốt Ngã Tư Sòng thêm lực lượng và hỏa lực. 12 tay súng trong đó có hai tổ B.41, hai tổ trung liên và đại liên được điều lên trận địa ngay trong đêm. Trung đội trưởng Nguyễn Văn Thoát được chỉ định thay Nguyễn Đình Cộng bị thương vì pháo địch.

Rạng sáng ngày 30 tháng 4 năm 1968, bầu trời vùng tứ giác rền vang bởi tiếng gầm rít của các loại máy bay địch. Bom nổ rền trên hướng Ngã Tư Sòng. Hơn trăm nòng pháo địch từ các căn cứ ở bốn đỉnh tứ giác bắn về không tiếc đạn. Một tiểu đoàn Mỹ cùng năm xe tăng sẵn sàng tiến vào Ngã Tư Sòng để đánh bật chốt của ta và thông dường.

8 giờ ngày 30 tháng 4 năm 1968, quân Mỹ được xe tăng yểm trợ bắt đầu tiến vào Ngã Tư Sòng. Tôi được anh em kể lại: ở hướng chính, Trung đội phó Đàm Vũ Hiệp trực tiếp nằm bên khẩu 12,7, bên cạnh anh là một xạ thủ B.41 súng lăm lăm trong tay, sẵn sàng nhả đạn.

Được xe tăng yểm trợ, quân Mỹ xông thẳng vào trận địa. Khi chúng cách tuyến công sự của ta chừng 300 mét, xạ thủ 12,7 xin bắn. Hiệp ra hiệu chờ chúng vào gần nữa. Quân Mỹ vẫn hùng hổ tiến, hai trăm mét, một trăm mét, đã nhìn rõ mặt những tên Mỹ da trắng đỏ ửng, những tên Mỹ da đen bóng. Hiệp ra lệnh: Bắn!

Khẩu 12,7 rung lên, những làn đạn xòe rẻ quạt quét thẳng vào đội hình quân Mỹ. Hàng chục tên Mỹ bị quật ngã. Chúng lùi lại cho xe tăng lao lên. Chiếc xe tăng M.41 vừa bắn vừa bò tới. Xạ thủ B.41 vừa đưa súng lên vai thì bị trúng đạn. Trung đội phó Đàm Vũ Hiệp vội lấy khẩu B.41 nhằm vào chiếc xe tăng siết cò. Chiếc xe tăng khựng lại, khói đen tuôn lên bao trùm cả chiếc xe.

Ở hướng của Trung đội trưởng Thát, các chiến sĩ ta cũng vừa bẻ gãy một đợt tiến công của địch, diệt hơn 30 tên Mỹ. Quân Mỹ lùi ra gọi pháo bắn phá. Cái làng nhỏ bên Ngã Tư Sòng biến dạng, không một ngôi nhà nào còn nguyên vẹn.

Đến 12 giờ bọn Mỹ thay quân. Trong khi chờ quân mới, chúng lại giội bom pháo vào trận địa quân ta. Chúng tôi điện cho anh Cần - Tiểu đoàn trưởng.

- Tình hình chốt Ngã Tư Sòng thế nào rồi anh Cần.

- Chúng tôi đang ở đài quan sát, đường dây liên lạc với chốt bị đứt, chưa khôi phục được. Nhìn những cột khói dựng lên ở chốt chúng tôi đành chỉ còn chờ nghe tiếng súng của ta để phán đoán tình hình.

Suốt cả ngày, Ngã Tư Sòng mịt mù trong khói đen. Các đợt tiến công của quân Mỹ liên tiếp bị đẩy lùi. Không thể đánh chiếm chốt Ngã Tư Sòng, quân Mỹ bắt đầu tiến công chốt Kim Dâu và Phú Hậu, nhưng chúng lại vấp phải bức tường lửa của quân ta. Rút cuộc, chúng vẫn không làm sao nhổ được những cái chốt hiểm hóc trên đường số 1 của Trung đoàn 64 chúng tôi.

Một tuần lễ liền, đường số 1, đường 71 và đường số 9 đã hoàn toàn bị tê liệt. Quân địch đồn trú ở tuyến phòng phủ Bắc Quảng Trị xin tăng cường không vận. Nhưng vận tải đường không không thể đáp ứng được nhu cầu của mấy vạn quân địch đóng dọc giới tuyến. Trong khi các đơn vị lính thủy đánh bộ Mỹ đang loay hoay đối phó với mấy cái chốt hiểm hóc của Trung đoàn 64 chúng tôi nhằm khai thông các tuyến đường bộ, thì trên sông Cửa Việt, những tàu vận tải của chúng liên tục bị bộ đội ta bắn chìm. Đường thủy mà tắc thì còn nguy hiểm hơn cả đường bộ. Thế là bộ chỉ huy quân Mỹ trên chiến trường Quảng Trị bỏ mặc mấy cái chốt trên đường số 1 cho quân đồn trú vùng Đông Hà xoay xở để tập trung vào việc khai thông tuyến đường thủy Cửa Việt, cái "cuống họng" của vùng Bắc Quảng Trị.

Trong khi quân Mỹ vùng Đông Hà đang tập trung đối phó với Trung đoàn 64 ở khu vực Ngã Tư Sòng, Bộ Tư lệnh Sư đoàn 320 lệnh cho Trung đoàn 52 dùng Tiểu đoàn 6 và đại đội hỏa lực phối hợp với Đoàn A4 Hải quân của ta và du kích Gio Linh nhanh chóng triển khai trận địa ở khu vực xóm Soi, Đại Độ, Thượng Nghĩa để đánh tàu địch trên ngã ba sông Hiếu và sông Thạch Hãn. Đồng thời lệnh cho Trung đoàn 48 đưa một tiểu đoàn lên Kỳ Lâm, Kỳ Trúc sẵn sàng chi viện và bảo vệ sườn phía sau của đội hình Tiểu đoàn 6 Trung đoàn 52.

Nhờ sự giúp đỡ của du kích huyện Gio Linh nên chỉ một đêm mọi công việc xây dựng trận địa của Tiểu đoàn 6 và Đại đội 16 tăng cường đã hoàn thành.

8 giờ ngày 30 tháng 4 năm 1968, hai ca nô tuần tiễu của quân Mỹ bắt đầu rẽ sóng. Vừa chạy chúng vừa dùng đại liên, súng cối bắn vào tất cả các bụi cây hai bên bờ mà chúng nghi ngờ. Trận địa của ta vẫn giữ bí mật, yên lặng.

Khoảng 9 giờ, từ hướng Cửa Việt bắt đầu xuất hiện năm chiếc tàu vận tải chất đầy hàng. Cùng lúc, đài quan sát phát hiện 2 đại đội địch triển khai dọc theo hai bờ sông bám sát hộ tống, chỉ huy Tiểu đoàn 6 lệnh cho bộ đội sẵn sàng đánh cả địch trên sông và trên bờ. Một lúc sau, tàu địch đè sóng lao đi. Sóng nước cuộn lên, ùa vào bãi cát trắng xóa. Hai đại đội địch sau khi hộ tống tàu ra khỏi cảng Cửa Việt chừng 1 ki-lô-mét thì dừng lại vì chúng cho là đã an toàn. Thời cơ hết sức thuận lợi, các xạ thủ nhằm chiếc tàu đi đầu chuẩn bị bắn. Từ vị tríchỉ huy, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 6 Trần Bình phát hiện chiếc tàu đi đầu hình như chở nhẹ nên tốc độ nhanh hơn, cách chiếc sau chừng 500 mét. Tiểu đoàn trưởng ra lệnh: Cho Đại đội 11 bỏ chiếc thứ nhất, chờ chiếc thứ hai khi đến ngang xóm Soi mới bắn. Trong khi phát hỏa chỉ một hai khẩu bắn chiếc đi đầu, còn đại bộ phận hỏa lực dành cho những chiếc đi sau. Đồng thời Bình lệnh cho Đại đội 10 ở Thượng Nghĩa khóa đuôi bắn chiếc cuối cùng.

Khi chiếc tàu thứ nhất vượt qua xóm Soi, chiếc thứ hai hiện ra trong kính ngắm, Đại đội trưởng Đại đội 11 lệnh cho đơn vị nổ súng. Từ bờ phía bắc, tất cả các loại hỏa lực ĐKZ 75, cối 82, B.40, B.41, 12,7 đại liên đều xối đạn xuống lòng sông. Ba chiếc tàu luống cuống, quay cuồng một lúc rồi đều trúng đạn và lần lượt chìm. Chiếc đi sau bốc cháy ngùn ngụt nhưng vẫn cố sức lao về cảng.

Bộ binh địch đi hộ tống chưa kịp trở tay thì cán bộ, chiến sĩ Đại đội 9 ập tới, xé nhỏ đội hình chúng ra tiêu diệt. Cả đại đội bị diệt gần hết, còn hơn chục tên sống sót chạy về cảng.

Cảng Cửa Việt náo động. Chiếc tàu hàng bị cháy với khói lửa rừng rực vẫn tiếp tục lao về cảng, gây nỗi kinh hoàng cho quân Mỹ ở đây. Quân cảng kéo còi báo động. Các tàu đậu trong cảng cùng lúc rú còi theo. Tàu chiến Mỹ đậu ngoài khơi hốt hoảng nhổ neo và nã pháo vào đất liền.

Trận đánh thắng lợi, bốn tàu vận tải với hơn một nghìn tấn hàng bị nhấn chìm, một chiếc khác bị thương nặng, gần một đại đội hộ tống trên bờ bị tiêu diệt.

Để trấn an tinh thần binh lính, ngày hôm sau 1 tháng 5 năm 1968, hai tiểu đoàn Mỹ và 12 xe tăng với sự yểm trợ tối đa của không quân và pháo binh hùng hổ nhằm hướng xóm Soi, Đại Độ xông đến. Khi quân Mỹ vừa tiến sát xóm Soi thì từ các công sự bộ đội ta không để lính Mỹ kịp xử trí đã đồng loạt nổ súng. Những khẩu đại liên, 12,7 xả đạn vào đội hình quân Mỹ. Những quả B.40, B.41 nhằm những tốp lính Mỹ cụm lại mà bắn. Ở hướng Đại Độ, trận đánh cũng diễn ra tương tự. Các chiến sĩ Đại đội 10, Đại đội 11 đợi cho quân Mỹ vào hẳn trong làng mới bất thần nổ súng, xé nhỏ đội hình chúng ra mà diệt. Xe tăng địch bị mất phương hướng khi trận đánh ở vào trạng thái "trộn trấu", chúng bắn vung vãi và lao bừa vào mé bìa làng. Nhưng những tay súng diệt tăng đã chờ chúng ở đó. Chín chiếc xe tăng M.48 và M.41 lần lượt bị bộ đội ta bắn cháy. Ba chiếc còn lại và hơn trăm tên Mỹ vội vã chạy về xã Vinh Quang Thượng.

Theo tin ta nắm được, tuy bị thua đau nhưng quân Mỹ chưa chịu bỏ cuộc, chúng tập trung 3 tiểu đoàn lính thủy đánh bộ và 14 xe tăng, một số xe bọc thép ra quyết chiến với ta. Từ hướng Vinh Quang Thượng quân Mỹ chia làm hai cánh, một cánh đánh vào Thượng Nghĩa. Dựa vào địa hình có lợi, Đại đội 9 Tiểu đoàn 6 Trung đoàn 52 chia làm nhiều bộ phận vừa giữ địa bàn, vừa xuất kích từ nhiều hướng đánh vào đội hình quân Mỹ khiến cho một tiểu đoàn Mỹ và một nửa số xe tăng lúng túng, bộc lộ nhiều sơ hở để bộ đội ta tiêu diệt.

Trong lúc ba tiểu đoàn Mỹ quần nhau với Tiểu đoàn 6 thì Tiểu đoàn 3 Trung đoàn 48 được lệnh cho Đại đội 9 đang đứng chân ở xóm Đồng Hoang bí mật xuất kích chi viện cho Tiểu đoàn 6. Tôi được anh em kể lại, trong trận này, Nguyễn Như Hoạt là liên lạc của Đại đội 9, khi cán bộ đại đội bị thương, Hoạt đã nắm lực lượng, theo phương án đã dẫn đầu một mũi đánh vào sau lưng đội hình một tiểu đoàn Mỹ đang ở xóm Soi, Đại Độ.

Mũi đột kích do Nguyễn Như Hoạt dẫn đường đã làm rối loạn đội hình địch, buộc chúng phải bỏ ý định tiến công xóm Soi, Đại Độ. Được sự chi viện của Tiểu đoàn 3 Trung đoàn 48, các chiến sĩ Tiểu đoàn 6 Trung đoàn 52 đồng loạt xuất kích, tạo thành thế từ trong đánh ra, ngoài đánh vào khiến quân Mỹ phải chạy về Cửa Việt, để lại hơn 300 xác đồng bọn.

Qua hai ngày chiến đấu, trên hướng Trung đoàn 52 và một bộ phận Trung đoàn 48 đã đánh chìm bốn tàu và hơn một nghìn tấn hàng hóa, diệt 500 tên Mỹ, bắn cháy hơn chục xe tăng địch. Cùng với các trận địa chốt ở khu vực Ngã Tư Sòng của Trung đoàn 64 chúng tôi, Sư đoàn 320 đã thực hiện tốt nhiệm vụ đánh phá giao thông của địch, làm rối loạn khu vực yết hầu của tuyến phòng thủ Bắc Quảng Trị, buộc bộ chỉ huy quân Mỹ phải tung những đơn vị sừng sỏ ra đối phó, thực hiện ý đồ kéo dịch ra, giam chân địch lại, chia lửa với hướng chủ yếu Khe Sanh; Thừa Thiên - Huế.

Sau những đòn choáng váng trên sông Cửa Việt, viên tư lệnh mới của sư đoàn lính thủy đánh bộ Mỹ quyết định mở cuộc phản kích mới. Lực lượng tham gia lần này gồm 3 tiểu đoàn lính thủy đánh bộ Mỹ và lực lượng quan trọng nhất của lữ đoàn kỵ binh không vận Mỹ số 173.

Về phía ta, Đảng ủy - Bộ Tư lệnh Sư đoàn 320 cử cán bộ vào nắm lực lượng của hai trung đoàn 48 và 52, đồng thời quyết định thành lập một ban chỉ huy thống nhất của "Trung đoàn hỗn hợp" giao cho anh Bùi Đình Hòe, Trung đoàn phó Trung đoàn 52 và anh Đặng Văn Trượng, Phó Chính ủy Trung đoàn 48, trực tiếp chỉ huy. Lúc này, lực lượng đang chốt ở vùng Đại Độ, xóm Soi, Đồng Hoang và Thượng Nghĩa.

Trong đêm 1 tháng 5, trên khu vực trận địa của ta, bộ đội khẩn trương làm hầm mới, công sự hầm hào cũ được đắp lại, vũ khí, đạn dược được tăng cường thêm. Anh Bùi Đình Hòe, anh Phạm Ngụ - Tham mưu trưởng Trung đoàn 48 đi tới từng trận địa kiểm tra, nhắc nhở, động viên các chiến sĩ. Mọi công việc chuẩn bị cho trận chiến đấu đã hoàn thành. Toàn đơn vị sẵn sàng trong tư thế chờ quân Mỹ đến.

4 giờ 30 phút, một tiểu đoàn lính Mỹ từ phía Cửa Việt men theo bờ sông đang tiến lên định tập kích quân ta. Anh Bùi Đình Hòe ra lệnh cho các trận địa bí mật chuẩn bị "đón" địch. Địch lặng lẽ lọt vào khu bố trí của ta. Chúng yên trírằng, có thể bất ngờ đánh úp quân ta, thì lập tức quân ta nổ súng. Quân Mỹ chưa kịp xác định hướng của ta để triển khai hỏa lực bắn trả thì đã nghe vang lên tiếng hô: Xung phong! Cả tiểu đoàn Mỹ phút chốc rối loạn. Đứa chết, đứa bị thương, một số tên đâm đầu chạy ra bờ sông, bộ đội ta đánh hất ngay xuống dòng sông Cửa Việt. Chỉ trong vòng 30 phút, tiểu đoàn Mỹ bị đánh tơi tả. Hơn 200 tên bỏ xác trên trận địa, số còn lại chạy một mạch về cảng Cửa Việt.

Bị đòn đạn bất ngờ, chỉ huy quân Mỹ ở Đông Hà điên đầu. Chúng liền thay đổi chiến thuật tung trung đoàn 2 sư đoàn Bến Hải quân ngụy đi trước dọn đường, nhử ta xuất kích để dùng phi pháo gây thương vong cho ta, sau đó các tiểu đoàn lính thủy đánh bộ Mỹ sẽ xuất kích tiến công quân ta. Nhận rõ âm mưu địch, chỉ huy trung đoàn lệnh cho các đơn vị bí mật dùng các mũi nhỏ vòng ra phía sau đội hình quân ngụy mà đánh, còn đại bộ phận lực lượng vẫn bám trận địa sẵn sàng đánh quân Mỹ. Để yểm trợ cho các mũi xuất kích nhỏ, ta cho cối bắn vào đội hình quân ngụy, làm chúng hoang mang, rối loạn. Bộ Tư lệnh sư đoàn yêu cầu pháo binh từ bờ bắc sông Bến Hải bắn mạnh vào đội hình quân địch và tích cực bắn kiềm chế các trận địa pháo binh địch. Cả một trung đoàn ngụy cứ loanh quanh trên bãi cát không sao tiến lên được.

Đến 12 giờ trưa ngày 2 tháng 5 năm 1968, không còn hy vọng gì ở bọn lính ngụy, bộ chỉ huy quân Mỹ ở Đông Hà quyết định tung 3 tiểu đoàn lính thủy đánh bộ Mỹ ở Vinh Quang Thượng tiến theo hướng xóm Soi, Đại Độ, Thượng Nghĩa. Trên trời, từng đàn trực thăng vũ trang của lữ đoàn kỵ binh không vận cũng rầm rộ ra quân. Pháo từ hạm đội Mỹ, từ ngoài khơi, pháo từ các căn cứ trên toàn khu vực và máy bay tập trung đánh phá dọn đường trong hơn một giờ liền. Chưa bao giờ vùng đất Cửa Việt bị bắn phá dữ dội như vậy.

Với sự yểm trợ của phi pháo, ba tiểu đoàn lính thủy đánh bộ Mỹ cùng xe tăng rầm rộ tiến về hướng xóm Soi, Đại Độ. Đợi địch lọt vào thế trận, trên cả ba hướng Đại Độ, Thượng Nghĩa và xóm Soi, tất cả các phân đội đồng loạt xuất kích. Từ nhiều mũi, nhiều hướng, bộ đội ta nhanh chóng chia cắt các đơn vị quân Mỹ ra mà đánh. Tiểu đoàn 2 lính thủy đánh bộ Mỹ bị các chiến sĩ Tiểu đoàn 3 Trung đoàn 48 do Tiểu đoàn trưởng Nguyễn Văn Bằng và Chính trị viên Phạm Văn Đông chỉ huy, chia cắt chúng ra từng mảng mà diệt. Các mùi tiến công của ta đã đẩy quân Mỹ ra tới bờ sông. Lúc này quân Mỹ hoàn toàn rối loạn, mạnh đứa nào đứa nấy chạy. Phát hiện thấy quân Mỹ yếu thế, Tiểu đoàn trưởng Bằng và Chính trị viên Đông lệnh cho Đại đội 9 vòng về phía sau xóm Soi, vận động ra sát bờ sông đón địch. Pháo binh của ta ở bờ bắc cũng tích cực tham gia bắn chặn quân Mỹ. Đội hình địch đã hoàn toàn phơi ra trên cát. Vì thế pháo ta bắn vô cùng hiệu quả. Cứ mỗi quả pháo ta nổ là chục tên Mỹ ngã gục. Bộ đội ta xung phong đuổi địch.

Quân Mỹ vẫn tháo chạy thục mạng, suốt 3 ki-lô-mét trên bãi cát, nơi nào cũng ngổn ngang xác lính Mỹ. Cùng đường, lính Mỹ lội ào cả xuống sông... Máu quân Mỹ đỏ loang trên dòng sông Cửa Việt.

Cùng thời gian này, ở hướng Đại Độ, Đại đội 11 Tiểu đoàn 6 đang quần nhau với gần một tiểu đoàn lính Mỹ. Cả 5 xe tăng địch lần lượt bị bộ đội ta bắn cháy. Mất chỗ dựa vào xe tăng lính Mỹ bắt đầu tháo chạy. Tiểu đoàn trưởng Trần Bình lệnh cho Đại đội 10 đánh hất chúng ra bãi cát. Bộ đội ta quây chặt hơn một trung đội Mỹ ở vườn chuối đầu làng. Khi những tên Mỹ ló ra đầu vườn chuối thì lập tức bộ đội ta nổ súng quét dọc đội hình địch rồi tung lựu đạn tới tấp. Hơn ba chục tên Mỹ không tên nào chạy thoát. Xác chúng nằm đè lên nhau trong vườn chuối đầu làng Đại Độ.

Thấy địch đã bị tiêu diệt, tổ chiến đấu Đại đội 11 Tiểu đoàn 3 Trung đoàn 48 gồm Lưu, Thu và Thanh xông vào thu chiến lợi phẩm. Đến lúc này, các anh mới phát hiện ra mình đã đánh trúng ban chỉ huy tiểu đoàn 2 lính thủy đánh bộ Mỹ. Tất cả điện đài, bản đồ, tài liệu, súng ngắn còn nguyên vẹn. Xác tên tiểu đoàn trưởng nằm vắt lên chiếc máy truyền tin PRC25. Trên lưng nó, ngoài khẩu súng ngắn, anh em còn phát hiện một thanh kiếm ngắn chuôi mạ vàng. Cậu Thu rút thanh kiếm ra xem thấy có ghi phù hiệu lính thủy đánh bộ Mỹ và niên hiệu 1836.

Trận chiến đấu kết thúc vào hồi 17 giờ ngày 2 tháng 5 năm 1968. Trên bãi cát Cửa Việt ngổn ngang xác lính Mỹ và 9 xe tăng bị thiêu cháy. Trong đó ta đã diệt gọn tiểu đoàn 2 lính thủy đánh bộ Mỹ, có cả ban chỉ huy của nó.

Trong trận này, ta cũng bị thương vong hơn một trăm cán bộ, chiến sĩ. Trong đó có anh Phạm Ngụ - Tham mưu trưởng Trung đoàn 48. Tôi biết anh hy sinh trong trận làng Đại Độ, nhưng anh được an táng ở đâu thì tôi không được biết. Sau này, năm 2011, chị Nguyễn Thị Vân vợ anh Phạm Ngụ đến gia đình tôi, chị nói:

- Gia đình đã bỏ nhiều công sức, vào Quảng Trị mấy lần nhưng vẫn không tìm thấy mộ của anh Ngụ.

Tôi chia sẻ với chị:

- Lúc anh Ngụ làm Tham mưu trưởng Trung đoàn 48 thì tôi làm Tham mưu trưởng Trung đoàn 64, anh em đi họp ở sư đoàn vẫn gặp nhau luôn. Trận đánh Mỹ ở Đại Độ, ta thắng lớn nhưng bom pháo của Mỹ nhiều lắm, nó bắn suốt ngày đêm. Tôi được anh em kể lại anh hy sinh do pháo địch. Sau đó mai táng anh ở đâu thì tôi không thể biết được. Sau này, ta có quy tập vào Nghĩa trang Quốc gia đường 9. Ở nghĩa trang này, còn nhiều liệt sĩ chưa biết tên, chắc anh Ngụ cũng trong số ấy.

Trở lại những ngày đánh Mỹ ở Quảng Trị trong tháng 5 năm 1968, sau hơn 2 tháng chiến đấu Sư đoàn 320 chúng tôi đã thu được thắng lợi to lớn. Nhưng bộ đội ta cũng bị hao hụt, mệt mỏi. Trước tình hình đó, Bộ Tư lệnh Mặt trận B5 cho Sư đoàn 320 rút toàn bộ lực lượng về đứng chân ở khu vực từ Cam Lộ đến Hướng Hóa theo trục đường 9, tiếp tục chiến đấu trong mùa mưa.

Trung đoàn 64 chuyển quân, nhìn mấy trăm thương binh cả nhẹ và nặng, có nhiều thương binh phải khiêng cáng. Các đường dự kiến lui quân của ta, địch đã chốt chặn. Ban chỉ huy trung đoàn không khỏi lo lắng. Anh Trịnh Hùng Thái hỏi tôi:

- Tình hình địch thế này, anh tính sao?

Tôi trả lời:

- Các đường ta dự kiến hành quân địch đã chốt cả. Bây giờ ta cho trinh sát táo bạo mở con đường luồn qua miếu Bái Sơn thôi anh ạ. Địch không ngờ ta hành quân đường này.

Sau 1 đêm hành quân, Trung đoàn 64 rời khỏi vùng tứ giác về đứng chân ở khu vực bắc Cam Lộ, An Thái, chiếm các điểm cao liên tục đánh phá giao thông dịch trên đường số 9. Trong đó, có cuộc chặn đánh lực lượng quân Mỹ rút chạy khỏi Khe Sanh.

Trước áp lực mạnh của ta, bộ chỉ huy quân Mỹ đã hình thành ở Khe Sanh một tập đoàn cứ điểm, gồm ba cụm cứ điểm: Tà Cơn, Hướng Hóa và Làng Vây. Quân Mỹ ở Khe Sanh thường xuyên có 1 vạn tên gồm 4 tiểu đoàn lính thủy đánh bộ, các lực lượng pháo binh, thiết giáp và bảo đảm hậu cần phục vụ, được sự yểm trợ mạnh mẽ của pháo binh và không quân, kể cả máy bay chiến lược B.52.

Sau khi địch sử dụng nhiều biện pháp để giải vây cho Khe Sanh đã bị quân ta đập tan; hơn thế nữa vòng vây của ta ngày càng siết chặt. Bộ đội ta bám sát quân Mỹ tiến công vào các căn cứ, chặn đánh bọn địch rút chạy bằng đường bộ, đồng thời khống chế việc vận chuyển bằng đường không. Ngày 9 tháng 7 ta hoàn toàn giải phóng Khe Sanh. Riêng trong đợt đánh quân rút chạy, ta đã diệt và làm bị thương hơn 7.000 tên Mỹ, bắn rơi 22 máy bay, phá hủy 69 xe quân sự, thu nhiều vũ khí và đồ dùng quân sự. Trong đó có 2 máy bay lên thẳng, buộc quân Mỹ phải trả giá đắt cho cuộc rút chạy này.

Ngày 5 tháng 8 năm 1968, một đại đội thám báo Mỹ nống ra thăm dò điểm cao 166. Chúng lọt vào đúng trận địa phục kích của Tiểu đoàn 7. Bộ đội ta chờ cho chúng lọt hẳn vào trận địa mới đồng loạt nổ súng diệt 90 tên, số sống sót phải quay lại tháo chạy về căn cứ. Quân Mỹ bị tiêu diệt, chúng cho máy bay trực thăng vũ trang lên chi viện, các chiến sĩ Tiểu đoàn 7 dùng súng bộ binh bắn rơi tại chỗ một chiếc.

Ngày 7 tháng 8, một tiểu đoàn Mỹ mở cuộc càn vào Phú Tân Ấp. Tiểu đoàn 9 đang triển khai trận địa ở đây, thấy vậy, anh em dùng tay đào công sự cầm súng chiến đấu diệt hơn 100 tên Mỹ. Anh em thu vũ khí và thu được cả bản đồ hành quân của địch. Căn cứ vào bản đồ thu được, chúng tôi phán đoán địch có ý định lấn ra vùng đường 71, lập một căn cứ bàn đạp cho các chi đoàn xe tăng, xe bọc thép chuẩn bị lấn sâu vào vùng giải phóng của ta, nới rộng thế trận.

Chỉ huy trung đoàn giao cho cơ quan tham mưu chúng tôi tổ chức một đại đội gọn nhẹ, bố trí sẵn ở khu đồi chữ Y chờ diệt xe tăng địch. Chúng tôi chọn Đại đội 7 Tiểu đoàn 8 đảm nhiệm nhiệm vụ này.

Đại đội 7 hành quân vào những ngày mưa tầm tã. Những con suối bắt đầu dâng nước. Các chiến sĩ ta phải tìm mọi cách dìu nhau vượt suối, quần áo ướt suốt ngày, lương khô thấm nước nhão ra. Nhưng ai nấy đều cắn răng chịu đựng, vượt qua gian khổ, vào chiếm lĩnh đúng thời gian như quy định.

8 giờ sáng ngày 9 tháng 8, đúng như dự đoán của ta, một đoàn xe tăng, xe bọc thép Mỹ gồm 20 chiếc từ Đông Hà lên An Thái rồi tiến vào khu đồi chữ Y. 1 giờ sau, 5 chiếc xe bọc thép M.113 chở đầy lính Mỹ đi trước vào gần tới khu đồi chữ Y. Đột nhiên chúng dừng lại, dùng tất cả các cỡ súng bắn như đổ đạn. Tôi điện cho Chính trị viên Nguyễn Văn Hỏa:

- Địch đã vào trận địa của ta, sao chỉ có súng của địch bắn.

Chính trị viên Hỏa trả lời:

- Theo em quan sát cách bắn của chúng, trận địa ta chưa bị lộ. Chúng chỉ bắn dọn đường để chuẩn bị vào đóng chốt.

- Anh động viên bộ đội, hãy bình tĩnh đợi chúng vào thật gần mới nổ súng. Loạt đạn đầu hãy nhằm vào những chiếc xe tăng mà diệt - Tôi nói.

Chính trị viên Hỏa:

- Tham mưu trưởng hãy yên tâm, chúng em nhất định lập công.

Bọn lính Mỹ đi trên 5 chiếc xe M.113 vừa bắn vừa thăm dò chừng 1 giờ đồng hồ không thấy ta phản ứng gì. Đoàn xe tăng bắt đầu rời An Thái. Khi chiếc xe tăng địch tiến vào sát mũi chặn đầu, Chính trị viên Hỏa phát lệnh nổ súng.

Tiếng súng B.40, B.41 nổ rền trời, thiêu cháy 3 chiếc đi dầu. Bị đòn bất ngờ, bọn Mỹ choáng váng, bỏ mặc những chiếc xe tăng bị cháy và những tên lính Mỹ bị hất xuống đường đang kêu cứu, chúng lùi lại dùng pháo và súng trọng liên trên xe bắn như vãi đạn. Lúc này Trung đội 3 làm nhiệm vụ khóa đuôi được lệnh xuất kích. Các chiến sĩ B.40, B.41 rời khỏi hầm tiếp cận địch và nổ súng rất chính xác. Trên dãy đổi chữ Y, từng đụn khói đen tuôn lên mù mịt. Máy bay địch kéo đến. bắn phá dữ dội hòng mở lối thoát cho bọn thiết giáp, nhưng mọi ngả đường bị ta khóa chặt. Biết không thể thoát, mấy chiếc xe và bọn Mỹ sống sót chạy lên đồi, cụm lại chống đỡ. Chính trị viên Nguyễn Văn Hỏa tổ chức lại đội hình chuyển từ thế phục kích sang thế đánh địch co cụm. Nhưng trận đánh sắp kết thúc, Chính trị viên Hỏa trúng đạn hy sinh. Trung đội trưởng Tam chỉ huy đơn vị đột phá, diệt nốt số xe tăng và số lính Mỹ còn lại, không để chúng chạy thoát.

Cay cú trước thất bại không ngờ, bộ chỉ huy vùng 1 chiến thuật và bộ chỉ huy sư đoàn 3 lính thủy đánh bộ Mỹ vội vã điều thêm lực lượng từ Cửa Việt lên Đông Hà, chuẩn bị một cuộc hành quân ra vùng Cam Lộ nam Hướng Hóa, do 2 trung đoàn số 9 và 26 thuộc sư đoàn 3 lính thủy đánh bộ Mỹ cùng 2 lữ đoàn kỵ binh bay số 11 và số 27 cùng 3 thiết đoàn xe tăng tiến hành.

Sau khi được thông báo về ý đồ phản kích lớn của địch, Bộ Tư lệnh Sư đoàn 320 lệnh cho Trung đoàn 64 chúng tôi triển khai thế trận ở địa bàn vừa tác chiến, đồng thời đưa Trung đoàn 48 triển khai, sẵn sàng tập kích quân Mỹ ở khu vực điểm cao 415 (còn gọi là đồi Mâm Xôi).

 

Ngày 16 tháng 8 năm 1968, một tiểu đoàn quân Mỹ mò ra khu vực điểm cao 75. Tiểu đoàn 7 Trung đoàn 64 đã chủ động nổ súng diệt gọn 1 đại đội đi đầu. Ngày 17 tháng 8, quân Mỹ lại nống ra khu vực điểm cao 188 có cả máy bay phản lực và trực thăng yểm trợ. Lần này, Tiểu đoàn 7 Trung đoàn 64 đã chặn đánh quyết liệt diệt 150 tên, bắn cháy một máy bay phản lực AD6 và 1 máy bay trực thăng.

Tiếp đó, từ ngày 19 đến ngày 21 tháng 8 năm 1968, Tiểu đoàn 8 và Tiểu đoàn 9 Trung đoàn 64 đã vận dụng tốt các hình thức chiến thuật chốt kết hợp vận động tiến công ở các điểm cao 202 và 233, bẻ gãy các đợt tiến quân của trung đoàn 26 lính thủy đánh bộ Mỹ, diệt hơn 200 tên.

Phối hợp với Trung đoàn 64, trên hướng Trung đoàn 48, Tiểu đoàn 3 do Tiểu đoàn trưởng Lương Văn Lai chỉ huy cũng tích cực chuẩn bị cho trận tập kích quân Mỹ ở điểm cao 415. Ngoài lực lượng của Tiểu đoàn 3, Sư đoàn còn tăng cường một đại đội ĐKZ 75 của Tiểu đoàn 16.

 

Suốt 2 ngày liền địch cho máy bay ném bom bắn pháo dọn bãi quanh khu đồi 415, ý định của chúng chọn nơi này làm nơi hội quân của 3 tiểu đoàn lính thủy đánh bộ Mỹ, trước khi nống ra vùng bắc Tân Lâm.

14 giờ, một tiểu đoàn lính thủy đánh bộ bí mật tiến vào điểm cao 415. Các phân đội của Tiểu đoàn 3 đã bám theo quân Mỹ án ngữ hướng đường 9. Đúng lúc ấy, một tốp trực thăng HU.1A ba chiếc bay tới lượn một vòng rồi hai chiếc đột ngột hạ xuống giữa bãi. Tiểu đoàn trưởng Lai ra lệnh nổ súng. Pháo ta nổ rền, một chiếc trực thăng bùng cháy dữ dội. Sau này ta được biết chiếc trực thăng bị cháy chở tên thiếu tướng, sư đoàn phó sư đoàn 3 lính thủy đánh bộ Mỹ. Tên tướng Mỹ này được đồng bọn đưa kịp lên chiếc trực thăng thứ hai nhưng đến Đông Hà thì viên tướng này tắt thở. Chiếc còn lại vội vã cất cánh chuồn thẳng. Tiểu đoàn 3 đồng loạt xung phong.

Bộ đội ta ào tới, xông thẳng vào đội hình quân Mỹ. Tiếng súng nổ rền vang. Trận đánh diễn ra chừng 30 phút, 1 tiểu đoàn Mỹ căn bản bị xóa sổ, xác lính Mỹ nằm la liệt khắp các cánh rừng trên điểm cao 415.

 

Trong khi Trung đoàn 64 và Trung đoàn 48 đánh quân Mỹ từ Cam Lộ đến Tân Lâm thì Trung đoàn 52 triển khai đội hình ở vùng rừng núi bảo vệ kho tàng của mặt trận và của sư đoàn. Đồng thời dùng một tiểu đoàn vào sát căn cứ Tân Lâm, chiếm giữ những điểm cao động Khe Sóc (cao 658 mét), Ba Lào (cao 503 mét), không cho địch dùng căn cứ Tân Lâm làm bàn đạp nống ra vùng giải phóng.

Vùng Khe Sóc và Ba Lào là vùng núi cao rừng rậm, địa hình hiểm trở. Dốc đứng, đường trơn, mưa tầm tã suốt ngày đêm, nhưng các chiến sĩ Đại đội 7 Tiểu đoàn 3 và Đại đội 4 Tiểu đoàn 16 vẫn hoàn thành việc vận chuyển súng, pháo, đạn, gạo và xây dựng xong trận địa đúng thời gian quy định. Khẩu ĐKZ 75 bố trí trên đỉnh Khe Sóc được lệnh bắt đầu nổ súng. Chỉ với một khẩu ĐKZ 75, nhưng vì ở ngay trên đầu địch nên đã gây nên nỗi khiếp đảm đối với quân Mỹ trong căn cứ Tân Lâm. Máy bay trinh sát của Mỹ ngày ngày bay vè vè trên đầu, nhưng pháo ta vẫn đều đặn bắn vào căn cứ Tân Lâm. Nhờ hầm hố kiên cố và ngụy trang giỏi nên máy bay trinh sát không biết chính xác khẩu pháo ta ở đâu.

 

Chỉ huy quân Mỹ lệnh cho pháo binh và máy bay ném bom liên tục khu vực động Khe Sóc. Sườn núi trơ trọi, xơ xác nhưng chúng vẫn không phá được pháo ta. Hàng ngày, pháo ta vẫn đều đặn bắn phá căn cứ Tân Lâm.

Không quân và pháo binh bất lực, quân Mỹ bắt đầu dùng chiến thuật "nhảy cóc". Ngày 25 tháng 8 năm 1968, quân Mỹ dùng một tốp trực thăng đổ quân xuống sườn đông bắc động Khe Sóc. Ở đây ta đã bố trí lực lượng chốt. Khi máy bay sà thấp đổ quân, Tiểu đội trưởng Nguyễn Xuân Thinh cho anh em nổ súng. Hai chiếc trực thăng trúng đạn, bốc cháy đâm đầu xuống sườn núi, thiêu cháy hơn hai chục tên Mỹ. Hai chiếc khác liều mạng vừa đổ quân xong vội vã bay thẳng. Mấy chục tên Mỹ rơi vào cảnh "đem con bỏ chợ", đang ngơ ngác giữa vùng rừng núi trùng điệp thì tiếng súng của các chiến sĩ Đại đội 7 vang lên. Bọn Mỹ hốt hoảng tháo chạy vào rừng. Nhưng rừng rậm núi cao không phải là nơi lính thủy đánh bộ Mỹ tung hoành. Mấy chục tên Mỹ lần lượt bị các tay súng Đại đội 7 Tiểu đoàn 5 tiêu diệt.

 

Để phát triển thế trận, Tiểu đoàn phó Nguyễn Ngọc Long cho một bộ phận của Đại đội 7 ra chiếm điểm cao Ba Trăm Đá, ở ngay sát đường số 9.

Ròng rã suốt một tháng trời, không ngày nào bộ đội ta không nổ súng. Đại đội 7 và Đại đội 4 pháo binh buộc địch phải tung 3, 4 tiểu đoàn ra đối phó, nhưng quân Mỹ vẫn không thể nào chiếm được đỉnh Khe Sóc, đỉnh Ba Lào và điểm cao Ba Trăm Đá.

Quân Mỹ liền thay đổi chiến thuật. Chúng tung 2 lữ đoàn kỵ binh bay cùng 2 tiểu đoàn lính thủy đánh bộ nhảy về phía sau hồng chặn đường tiếp tế và bao vây các lực lượng của ta ở Khe Sóc, Ba Lào và Ba Trăm Đá. Tuy không chiếm được các trận địa của ta, nhưng quân Mỹ đã vây chặt mọi ngả đường.

Cụm chiến đấu ở Khe Sóc, Ba Lào bắt đầu gặp khó khăn vì đạn, gạo sắp hết, thương binh không chuyển ra được. Liên lạc với trung đoàn cũng bị mất vì chiếc máy 15W cuối cùng đã bị bom đạn Mỹ phá hủy. Tình thế vô cùng khó khăn nhưng chưa có lệnh, bộ đội quyết chưa dừng tiếng súng. Hết đạn thì lấy đạn địch mà đánh. Hết gạo thì lấy đồ hộp Mỹ chiến lợi phẩm, hái rau rừng, bắt cua bắt cá ở suối mà ăn, kiên quyết không rời trận địa. Đó là quyết tâm của cán bộ, chiến sĩ trên cụm chốt Khe Sóc, Ba Lào.

Khẩu ĐKZ 75 đã bắn đến viên đạn cuối cùng. Đêm đêm các tổ thay nhau tập kích quân Mỹ trên đường số 9, trên các điểm cao. Trận nào dù nhỏ hay lớn anh em cũng thu được vũ khí, đồ hộp của địch để tiếp tục sống và chiến đấu. Hàng ngày, anh em thay nhau đi kiếm rau rừng, bắt cua, cá ở suối ăn thay cơm. Lương khô, đồ hộp thu được của lính Mỹ đều dành cho thương binh. Không thể kể hết những nỗi gian truân mà anh em đã phải vượt qua trong những ngày này. Nhưng cũng chưa bao giờ anh em thấm thía nghĩa tình đồng chí, đồng đội như những ngày sống và chiến đấu giữa vòng vây của địch.

Cuối tháng 9 năm 1968, Trung đoàn 52 mới bắt được liên lạc với Đại đội 7 và Đại đội 4 pháo binh. Đến lúc ấy, mọi người mới tin rằng anh em vẫn còn tồn tại, cụm chốt Khe Sóc, Ba Lào vẫn đứng vững.

Tháng 10 năm 1968, Sư đoàn 320 được lệnh rút về hậu phương miền Bắc. Sau gần một năm đối mặt với quân Mỹ, đồi mặt với cái chết, đối mặt với muôn vàn khó khăn, gian khổ, đội ngũ sư đoàn có vợi đi, nhưng vẫn dồi dào sức lực và dày dạn hơn nhiều. Lớp chiến sĩ trẻ hôm nào ra trận còn mơn mởn măng tơ, hôm nay đã trở nên chững chạc, chín chắn. Nhiều người đã trở thành những cán bộ chỉ huy đầy triển vọng.

Bình luận


© 2023 bởi Nhà Lưu Niệm. Được dùng và bảo mật bởi Wix

bottom of page