top of page

Lời nhà Xuất bản. Chương 1. Quê hương và thời niên thiếu. Chương 2. Tham gia cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp)

  • Tướng quân Khuất Duy Tiến
  • 19 thg 12
  • 88 phút đọc

Đã cập nhật: 6 giờ trước

Lời nhà xuất bản


ree

Ký ức đời binh nghiệp là cuốn hồi ức của Trung tướng Khuất Duy Tiến, nguyên Tư lệnh Quân đoàn 3, nguyên Cục trưởng Cục quân lực và Hiệu trưởng Trường Sĩ quan Lục quân 1 (Trường Đại học Trần Quốc Tuấn ngày nay).

Cuốn sách tái hiện cuộc đời cùng cục của người thanh niên Khuất Duy Tiến sinh ra và lớn lên ở xã Đại Đồng, huyện Thạch Thất, Hà Tây (Hà Nội). Ông được tận mắt chứng kiến cảnh bần cùng của nạn đói năm 1945 đã cướp đi hơn 400 người dân trong xã. Trong số đó có hai người chú ruột của ông. Được giác ngộ cách mạng, năm 13 tuổi ông tham ra cách mạng ở địa phương, bị địch bắt giam trong nhà tù đế quốc , chịu cực hình tra tấm dã man nhưng vẫn giữ được khí chất của người cách mạng. Ông và các bạn tìm cách vượt nhà tù về tiếp tục hoạt động. Tháng 9 năm 1950, Khuất Duy Tiến vào bộ đội, ở Trung đoàn 48 Đại đoàn 320. Ông liên tục chiến đấu ở Sơn Tây, Hòa Bình, Ninh Bình, Hà Nam, Hà Đông và Thái Bình, cùng đơn vị lập được nhiều chiến công xuất sắc. Hòa bình lập lại, Khuất Duy Tiến được cử đi học Trường Sĩ quan Lục quân 1, ra trường ông về công tác ở Quân khu 3. Khi quân Mỹ vào trực tiếp tham chiến ở miền Nam, ông lại cùng Sư đoàn 320 và đánh Mỹ ở chiến trường Quảng Trị, Tây Nguyên, tham gia giải phóng Sài Gòn, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Nhưng hòa bình chưa được bao lâu thì Pôn-Pốt gây chiến tranh biên giới Tây Nam, Khuất Duy Tiến lại cùng Sư đoàn 320 Quân đoàn 3 chiến đấu bảo vệ biên giới và làm nhiệm vụ quốc tế trên đất bạn Cam-Pu-Chia. Tiếng sung biên giới Tây Nam tạm lắng xuống, chiến tranh biên giới phía Bắc lại nổ ra, Khuất Duy Tiến cùng Quân đoàn 3 tiếp tục hành quân ra Bắc để tham gia bảo vệ vừng biên giới thân yêu của Tổ Quốc. Chiến tranh biên giới kết thúc, ông được điều về làm Cục trưởng Cục Quân lực, sau đó về làm Hiệu trưởng Trường Sĩ quan Lục quân 1. Với sự phong phú về vốn sống và sự trải nghiệm gắn với những vị trí công tác khác nhau nên cuốn sách là tư liệu quý để người đọc hiểu về cuộc đời binh nghiệp của ông gắn với nhiều loại hình tổ chức trong quân đội; hơn nữa càng thấy ở ông những phẩm chất đáng quý về trí tuệ và nhân cách của một cán bộ cao cấp trong Quân đội nhân dân Việt Nam. Tất cả đều được tái hiện một cách sinh động, chắt lọc và chân thực trong Ký ức đời binh nghiệp.

Xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc!

NHÀ XUẤT BẢN QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN

Chương một: Quê hương và thời niên thiếu

Tôi sinh ra và lớn lên tại xã Đại Đồng, huyện Thạch Thất, tỉnh Sơn Tây, có thời kỳ là Hà Sơn Bình – Hà Tây; nay thuộc thành phố Hà Nội.

Tương truyền khởi đầu làng tôi có tên là “Kẻ Đòng”, “Cự Đồng”, “Ấp Đồng”, đến năm 1573 đời vua Lê Thế Tông có thêm 2 dòng họ Nguyễn về lập nghiệp, với các làng lấp nên ấp Cự Đồng; dân số có tăng lên, phong tục nếp sống… thời kỳ các bậc tiền nhân không ghi chép lại và truyền khẩu cũng không đủ.

Tiếp đến đầu mua xuân năm Ất Sửu đời vua Lê Huy Tông niên hiệu Chính Hòa thứ 11 (1635) khởi công xây dựng ngôi đình làng, cất nóc ngày Ngọ tháng Mão năm Quý Tỵ 1713, kéo dài 32 năm mới hoàn thành Đại đình vào năm Đinh Dậu đời vua Lê Dụ Tông niên hiệu Vĩnh Thịnh thứ 13 (1717). Đại Bái xây dựng sau Đại Đình 100 năm; khởi công từ năm Minh Mạng thứ 7 (1826), hoàn thành năm Minh Mạng thứ 21 (1840).

Ngôi đình tọa lạc tại trung tâm làng, tổng diện tích 8.266 mét vuông với 9 hạng mục công trình gồn Đại đình, Đại bái, Hậu cung, Tả mạc, Hữu mạc, Tả phòng, Hữu phòng, nhà kho, nhà bếp. Kiến trúc Đại Đình đậm nét đời Lê; ngoài bốn đầu rồng đỗ câu đầu chạm trổ hoa văn, còn lại toàn bộ mộc xẻ vuông, đẽo nhẵn lấy bền chắc làm chính; hầu hết thuộc nhóm gỗ tứ thiết có chọn lọc kỹ, diện tích chiếm 319,2 mét vuông gồm 3 gian giữa, 2 gian đầu đốc đứng trên 48 cột trụ vững, cao 5,5 mét, thân cột tròn to vượt vòng tay người ôm, chân cột được kê phiến đá xanh vuông trên mặt có đế tròn gọi là đấu kề sát chân cột vừa là mỹ thuật vừa chống ẩm ướt mối mọt, tạo bền lâu cho cột.

Kiến trúc Đại bái đình mang đặc trưng cung đình thời Nguyễn: Hai tầng 8 mái, nóc có đao vươn lên mềm mại, uyển chuyển hợp với Đại Đình tạo thế chữ nhị hoành tráng. Gian chính giữa Đại đình treo bức hoành phi trên khắc ba chữ lớn thếp vàng; đọc từ bên phải sang bên trái: “Thiên Đồng Đại”, đọc từ trái sang phải: “Đại Đông Thiên”.

Dù đọc theo chiều nào, hiểu theo y nào thì tựu trung lại, các bậc tiền nhân để lại cho hậu duệ một báu vật đó là: Lời tiên đoán. Lời định ước, là mục tiêu, là Cương lĩnh tiến tới: Đại là to lớn là bao quát, là khối lượng không lồ không thể chia cắt; Đồng là cùng một lòng, một cộng đồng, một khối thống nhất; “Thiên” là trời, là vùng trời, là một không gian bao quát chứa đứng khối lượng Đại Đồng hoặc Đồng Đại. Ý của ba chữ: Làng Đại Đồng là một khối đoàn kết thống nhất, đồng tâm hiệp lực xây dựng phát triển làng ngày càng giàu mạnh tiến bộ trên mọi mặt – lời tiên đoán, ước mơ của tiền nhân ngày này đã thành sự thật!

Trước cách mạng tháng Tám (1945), Đại Đồng là một xã lớn, dân số tập trung đông, ruộng đất phì nhiêu, kinh tế phát triển hơn các xã xung quanh, có chợ là cơ sở trao đổi hàng hóa, có văn chỉ hàng năm tế Đức thánh Nho học. Đây là nơi có nhiều bậc học vị tiến sĩ, cử nhân tú tài, tri phủ, tri huyện, địa vị trong hạt nên chính quyền đương thời lấy xã Đại Đồng là trung tâm thiết lập Tổng gọi là tổng Đại Đồng gồm 7 xã: Đại Đồng, Cẩm Bào, Yên Lỗ, Thanh Câu, Lại Khánh, Hạnh Đàn và Hoàng Xá. Đại Đồng có 5 thôn: Đại Đồng, Hương Lam, Ngọc Lâu, Minh Nghĩa, Minh Đức; thôn Đại Đồng ở trưng tâm xã, nơi tập trung dân cư đông nhất, cơ quan chính quyền lập trung tâm hành chính ở thôn Đại Đồng – thường gọi xã Đại Đồng là tổng Đại Đồng, huyện Thạch Thất, tỉnh Sơn Tây; tổng có chánh tổng và chức dịch cai quản; xã có lý trưởng và chức dịch xã cai quản dưới sự giám sát của chánh tổng.

Sau Cách mạng tháng Tám giải thể hệ thống tổng, từng xã độc lập riêng lẻ.

Xã Đại Đồng trải qua hai cuộc kháng chiến và thời kỳ đổi mới, trở thành xã 2 lần được Nhà nước tuyên dương danh hiệu Anh hùng (Anh hùng trong kháng chiến chống Pháp và Anh hùng trong thời kỳ đổi mới).

Ruộng đất canh tác tập trung ở thôn Đại Đồng; riêng các gia đình địa chủ, lý trưởng, chánh tổng chiếm 50% ruộng tốt (gọi là thượng đẳng điền) còn lại là ruộng công của đình, chùa, phe, giáp, ruộng họ; nông dân, bần, cố nông chiếm trên 80% dân số, một vài gia đình có một hai sào ruộng gọi là bần nông, còn số lớn chỉ có sức lao động và hai bàn tay (cố nông) phải đi làm thuê, ở mướn, làm các nghề khác như thợ nề, thợ mộc, mò cua, bắt ốc, kéo xe tay, đi phu đồn điền; túng thiếu quá thì phải bán đất ở đi ở nhờ, ở cầu quán, bán con, cho vợ đi ở vú nuôi con nhà giàu, tìm các việc để kiếm sống..., Hàng năm cứ đến tháng 3 - tháng 8 âm lịch gọi là tháng giáp hạt (cánh đồng làng tôi thời đó một năm chỉ cấy được 2 vụ, gặt lúa vào tháng 5 là vụ chiêm và tháng 10 là vụ mùa). Cảnh thiếu đói diễn ra gay gắt và cũng là thời điểm các nhà nghèo đi vay nóng, bán ruộng, bán đất, bán con, bán lúa non (lúa sắp đến thời kỳ được gặt). Đây là lúc dân làng xáo trộn, nhà giàu cho vay nặng lãi, bắt chẹt nhà nghèo mua rẻ, bán đất, trộm, cướp sinh ra, nông thôn mất an ninh, tuần phiên chức dịch tuần tra khắp làng, trống, mô cầm canh các xóm, các cổng làng, thôi thúc thâu đêm. Trên cánh đồng giáp với xã bạn, tuần phiên suốt đêm phải thay nhau canh gác đề phòng bướp, trộm lúa (có trường hợp một đêm mất hàng 5 - 7 sào lúa bị gặt trộm, cướp trắng trợn...). Trong làng, ngoài việc để phòng trộm còn phải sẵn sàng đánh cướp từ nơi khác đến. Các gia đình nghèo khó còn sinh ra nhiều chuyện đau thương: Vợ chồng cha con, anh em ruột thịt nội ngoại, xa lìa nhau vì nợ nần, vay giật: bỏ nhà đi xa xứ kiếm ăn mất tin, mất tích, lang thang cơ nhỡ... Giáp hạt là một thảm cảnh treo trên cổ người nông dân nghèo không thể nào gỡ thoát ra được. Hết năm này qua năm khác, biết mà không tránh được. Gặp năm mất mùa, thất bát thảm cảnh còn diễn ra khốc liệt hơn nhiều và cứ như thế, tích tụ dồn nén đời này qua đời khác. Nhà giàu cứ giàu thêm, ngôi thứ chức sắc trong làng họ nghiễm nhiên chiếm cứ đè nén dân nghèo, người nghèo ngày càng khốn khó dẫn đến thảm cảnh nhiều người khỏe mạnh cường tráng nhưng quá nghèo không có tiến lo vợ, sống cô đơn suốt đời. Không vợ, khi chết gọi là "ông mãnh", con gái nghèo không chồng sống cô đơn chết gọi là "bà cô"... Thanh niên nghèo không có tiền đóng thuế thân - "gọi là sưu" bị chức dịch bắt cùm kẹp tại đình làng hoặc chợ chiều của làng, cơ cực quá phải bỏ làng đi tha phương kiếm ăn! Chỉ sau Cách mạng tháng Tám, sau cải cách ruộng đất mới thoát cảnh thảm thương đó. Người nghèo được ngẩng cao đầu, có ruộng có đất biết làm ăn thì cuộc sống nâng lên đủ ăn, khá, giàu...

Tôi cất tiếng khóc chào đời vào 3 giờ sáng ngày 27 tháng 1 năm 1931 trong căn nhà năm gian chân tay tre cột gỗ lợp tranh; ba gian ngoài thờ tổ, hai đầu hồi là buồng ngủ. Đối với tôi là thế hệ thứ 7, thứ 8 được sinh ra tại đây. Trước tôi là các cụ kỵ tiên tổ rồi đến cụ ngũ đại, tứ đại đến ông tôi, bố tôi cũng sinh ra tại ngôi nhà này. Không rõ các cụ tiền nhân về lập nghiệp tại đây từ năm nào? Cụ đầu tiên tên là gì lúc đầu về đây bao nhiêu người cho đến nay trở thành họ Khuất Duy có trên 200 nhân khẩu là một trong họ Khuất của làng Đại Đồng (làng tôi có 4 họ Khuất gồm họ Khuất lớn và 3 họ Khuất nhỏ gọi là họ Khuất con) gia đình tôi là trưởng họ. Ngôi nhà tôi dược sinh ra là ngôi nhà thứ hai, ngôi nhà thứ nhất đã bị đốt cháy một lần sau thời gian cụ nội tôi qua đời. Lúc này ông nội tôi mới 3 tuổi. Không rõ ngôi nhà thứ nhất quy mô, hình thức ra sao, chỉ được truyền lại cụ nội tôi qua đời năm 29 tuổi, sau buổi tiệc mừng (gọi là khao) mua chức tước ở làng, cụ bị cảm rượu không cứu được. Sau thời gian cụ tôi mất thì nhà bị cháy, tất cả gia phả và giấy tờ cần thiết! Kể từ đó gia đình bị sa sút đến đời bố tôi trở thành một cố nông!

Ông nội tôi Khuất Duy Đán qua đời ở tuổi 30 để lại cho bà nội tôi đang tuổi 31 một bóng một đèn nuôi 3 con trai: Bố tôi năm đó 7 tuổi, chú thứ hai 5 tuổi, chú thứ ba 3 tuổi. Bà nội tôi là một phụ nữ có nghị lực và đức độ, nhân hậu, đảm đang, thông minh thay ông nội tôi chăm lo việc họ việc nhà, dạy dỗ ba con, chăm sóc việc nội ngoại trong ấm ngoài êm. Bà khen bố tôi là người con có hiếu với mẹ và thương yêu các em biết khuôn xếp gia đình, đối xử với họ hàng nội ngoại xứng đáng là trưởng họ. Bà thường nhắc nhở tôi phải biết nghe lời bố mẹ và kính trọng bố mẹ đó mới là con có hiếu. Bà bảo nhờ có bố con nên bà vững tâm trông nom việc nội ngoại và nuôi hai chủ. cho đến lúc hai chú đến tuổi đi làm kiếm tiền được thì lại đến trông nom tôi và các em tôi. Bà yêu quý chúng tôi hết mực, bà thường nói các con cháu là nguồn sống của bà. Vì vất vả nên mới ngoài 50 tuổi bà tôi đã rụng hết răng, mà cơm nhà tôi quanh năm độn sắn lát, ngô hột, có khi độn cả hạt mít, bảy phần sắn, ngô mới có ba phần gạo. Bố mẹ tôi thương bà thường nhặt bớt sắn, ngô sang bát mình, nhưng bà thương anh em tôi nên lại thường sẻ bớt phần cơm của bà sang bát của anh em tôi. Bố mẹ tôi bảo các con không được để bà ăn cơm độn nhiều ngô sắn quá. Khi tôi lên chín, lên mười đã biết thương bà, tôi từ chối nhưng các em nhỏ lại thích ăn cơm không độn. Thấy bà nhường cho thích quá, thành ra bữa cơm nào cũng chứa đựng tình đầm ấm, thương yêu và sự nghẹn ngào không nói nên lời giữa bố mẹ tôi, bà tôi và anh em tôi. Hình ảnh bà tôi nhai cơm trệu trạo mãi mới hết một bát mà vẻ mặt rất thản nhiên vui vẻ vì các em tôi được ăn uống ngon lành. Còn bố mẹ tôi với khuôn mặt khắc khổ, suy tư vì thương mẹ, thương con trong cảnh túng thiếu của gia đình. Bà tôi mất ngày 20-8 năm Quý Tỵ (27-9-1953) khi cuộc kháng chiến chống Pháp gần kết thúc. Tháng 10-1954 khi tôi được về phép thì bà tôi đã mổ yên mả đẹp... Tôi thương nhớ bà vô cùng!

Bố tôi sinh năm Đinh Mùi 1907 theo bà thường kể, bố tôi khi mới sinh ra bé tý, đỏ hỏn, khóc rất to, các cụ nói khó nuôi lắm đấy. Nhưng thực ra thì bố tôi rất dễ nuôi bú nhiều, ăn no là ngủ, không quấy mẹ, không ốm đau vặt. Mỗi ngày một lớn, ông bà đặt tên bố tôi là Khuất Duy Đản. Năm bố tôi lên 2 tuổi đã biết đi và nói sõi, thì mẹ lại sinh chú hai tôi đặt tên là Khuất Duy Cắng. Đến năm bố tôi gần 6 tuổi thì bà sinh chú ba đặt tên chú là Khuất Duy Đàn.

Bố tôi là người thông minh nhanh nhẹn, ông bà và các cụ nội ngoại rất quý; các cụ đều nói xứng đáng là trưởng họ nên ông bà cho bố tôi đi học chữ Nho từ năm lên 6 tuổi. Bố tôi là người sáng dạ, học đến đâu biết đến đó, nhớ mặt chữ thuộc bài học, đọc một lần gấp sách đọc lại không thiếu một chữ, miệng đọc tay viết không sót chữ nào. Cả nhà cả họ rất mừng có người kế tiếp viết được Văn tế tổ họ và đọc tên ông vải.

Nhưng sự bất hạnh ập đến với gia đình. Ông nội tôi ốm chết đột ngột, năm đó bố tôi mới 7 tuổi. Gia đình mang tổn thất quá lớn vừa mất người trụ cột, mất nguồn lao động chính. Bà tôi kể lại khi ông tôi mất bà tôi như người mất hồn, đau yếu vẩn vơ mất nửa năm chả làm được gì, may có bà em gái (tên là Vũ Thị Xe) rất thương chị và các cháu, ngày đêm luôn ở bên chị và trông nom các cháu. Bố tôi lúc đó đã biết thương mẹ, có lần bỏ học ở nhà giúp mẹ và dì trông nom các em. Được em gái an ủi và bố tôi đỡ đần nên bà gượng lại được và dần dần đứng vững mọi việc để thu xếp gia đình. Bà tôi nói khi đó chỉ biết làm lụng để nuôi các con nên người và thay ông tôi thu xếp việc họ hàng nội ngoại chu tất.

Đến năm bố tôi tròn 9 tuổi và các chú còn nhỏ, cuộc sống nơi thôn quê ngày một khó khăn, gia đình ngày càng túng bấn. Bố tôi đã bước đầu học bữa đực bữa cái để dành thời gian tham gia giúp mẹ, ngày mùa đi mót lúa, bắt cua, ốc, vơ rác, cắt rạ về đun... Bà tôi đã cảm thấy rất khó nuôi nổi ba con, có người đã bàn với bà tôi cho bớt một, hai chú để nuôi bố tôi học hành. Bà tôi chỉ khóc vì thương con, con mình dứt ruột đẻ ra sao lại đem cho người ta, thà rằng cùng nhịn đói, cùng chết đói chứ không cho ai cả. Bà tôi ôm các chú và bố tôi vào lòng và nói như vậy! Bố tôi lúc này đã biết nói với mẹ:

- Mẹ ơi! Con lớn rồi, có thể chăn trâu, cắt cỏ quét dọn nhà cửa, phơi rơm phơi thóc được, mẹ cho con đi ở kiếm cơm đỡ mẹ!

Bà tôi òa lên khóc thật to và bà thét:

- Con phải đi học khi nào viết được Văn tế tổ thì làm gì mới làm, đi đâu mới đi, mẹ còn làm được, khi nào mẹ không lê được chân nữa thì con mới thôi học.

Nhưng cuộc sống thực có chiều theo ý muốn con người đâu. Cuối năm mất mùa cả làng đều thiếu đói, anh chị em cận cảnh cũng không thể cứu cánh được cho nhau. Lần này bố tôi khóc và xin bà tôi cho đi ở để kiếm sống. Cũng may có ông người làng đi làm thợ sơn mách bảo:

 

- Trên làng Thụy Phiếu có gia đình tốt lắm, họ cần người chăn trâu, cắt cỏ, phơi lúa phơi rơm, chị có cho cháu lên ở đó tôi giúp cho.

Bố tôi mừng quá xin bà cho đi, bà tôi bàn với các ông chú bác họ nội và anh em bên ngoại được mọi người đồng tình. Bà Vũ Thị Xe em gái bà tôi xin cùng đi với ông thợ sơn lên thăm nhà ông chủ trước. Sau khi đi thăm về bà kể chuyện và khen gia đình này lành hiền (người miền núi thật thà).

Mấy ngày sau bà tôi sửa lễ kính báo tổ tiên và ông nội xin cho bố tôi đi làm con ở nhà người ta. Bố tôi theo bà Xe, hai dì cháu đưa nhau lên nhà ông chủ và cuộc đời làm người ở của bố tôi bắt đầu từ đó (năm bố tôi lên 9 tuổi), đến khi 23 tuổi cưới mẹ tôi mới về. Bố tôi là người nhanh trí, tháo vát, làm tốt mọi việc ông chủ giao, được ông bà chủ rất quý mến, tin tưởng coi như con trong gia đình, mọi việc ông giao cho cai quản. Cô con gái lớn và cậu con trai coi bố tôi như anh ruột. Ông chủ thương thật sự định gả con gái (cô Hạnh) cho. Sau khi bố tôi về quê xây dựng gia đình và đã có anh em tôi, hai gia đình vẫn quan hệ như gia tộc, cho đến khi Pháp chiếm nước ta lần thứ hai, chiến tranh liên miên, gia đình ông chủ di tản nay không còn liên lạc nữa.

Bố mẹ tôi mười lần sinh nhưng chỉ nuôi được 5 người. Tôi là anh cả, em thứ hai tên là Khuất Thị Đạt sinh đầu năm 1933, em thứ 8 tên là Khuất Thị Lan sinh năm 1948, em thứ 9 tên là Khuất Thị Liên, em thứ 10 tên là Khuất Duy Viễn sinh năm 1952; các em tôi từ thứ 3 đến thứ 7 ra đi khi tuổi còn rất nhỏ. Em Quý 6 tuổi mất 22-12-1940, em Thát 4 tuổi mất 16-3-1941; em Tuyển mất cuối năm 1942; trong thời gian ngắn mất 3 đứa con đẹp như tranh vẽ; bố mẹ tôi suốt ngày sầu thảm, gia đình luôn vắng lặng.

Đầu năm 1943 tự nhiên có chuyện các bà đi gọi hồn gọi cốt thầy phán và bảo nếu không cúng bái thì đứa con đầu tuổi 13 (là tôi) bị bắt đi nốt. Gia đình nội ngoại nháo nhác, dao động cực độ, còn 2 sào ruộng hương hỏa bán nốt để lo lễ bái, gia đình trở nên kiệt quệ. Bố tôi chưa bao giờ tin vào ma, quỷ thần thánh, ông thường nói ra miệng, ngày giỗ. Tết sắm mâm lễ để trình lên tổ tiên tỏ lòng báo hiếu, trước là cúng bái tiên tổ sau là gia đình con cháu thụ hưởng, thế mà bây giờ ông phải đồng lòng bán nốt 2 sào ruộng hương hỏa hàng năm hương khói tổ tiên của họ, sự việc bất đắc dĩ, các cụ trong họ cũng phải đồng lòng cho phép, bố tôi hoang mang buồn nản...

Khoảng cuối tháng 4 đầu tháng 5 cậu Đinh Quang Hoàn (là anh mẹ tôi), đến thăm nhà. Ông an ủi bố mẹ tôi bình tâm. thu xếp ổn định việc nhà; thôi việc cúng bái, bói toán, nhà ta còn gì nữa mà cứ bày vẽ ra thế này, không còn thì giờ để chạy ăn nữa, cả nhà sắp chết đói rồi. Cô chú thử nhìn lại nhà cửa xem sắp sửa sân rêu nhà mốc rồi đấy. Thấy bố tôi yên lặng tỏ vẻ lắng nghe, ông giải thích cho bố mẹ tôi:

- Tại sao mấy cháu mất nhanh thế, là do mình  nghèo mình không có thầy có thuốc đúng nên các cháu nó chết thản như vậy. Tôi đi làm thợ ở mấy làng gần tỉnh, có cháu ốm thập tử nhất sinh, có đứa bệnh còn hơn cháu tôi mà họ đưa lên nhà thương, hoặc chỉ uống vài viên thuốc Tây là khỏi, lại chơi ngoan, khỏe manh. Họ có tiền đưa con đến được nhà thương, họ mua thuốc Tây chữa cho con. Còn anh em mình cơm không có mà ăn, con ốm còn phải mua chịu thuốc của ông lang thì lấy gì mà chạy chữa thầy giỏi thuốc hay.

 

Bố tôi thét lên:

- Chỉ tại tôi nghèo đói quá, chỉ tại tôi không làm ra tiền để cứu con tôi, cậu ạ!

- Không phải thế đâu cô chú ạ.

Cậu tôi nói từ tốn:

- Tất cả chỉ tại cái thằng Tây, thằng Nhật, bọn vua quan, bọn chánh tổng lý trưởng, bọn nhà giàu chúng nó dìm anh em nghèo khó chúng ta vào kiếp tối tăm, cơ cực đói khổ, dốt nát. Chú thử nghĩ lại xem, anh em mình làm quần quật, đầu tắt, mặt tối, quanh năm suốt tháng có lúc nào ngơi chân tay, ốm cũng phải gượng dậy đi làm kiếm bữa, nghỉ chân tay là nghỉ miệng, con đói, mẹ đói cả nhà nheo nhóc; chứ mình có làm gì nên tội mà tổ tiên, trời phật trừng phạt.

Cậu đưa cho bố tôi 5 hào (lúc đó mua được một thúng gạo cho cả nhà ăn trong nửa tháng) và nói:

- Tôi mới nhận tiến công thợ xây, giúp cô chú mấy hào đỡ lúc khó khăn này, thôi từ mai đi làm kiếm sống nuôi cả nhà không cúng bái gì nữa nhé!

Bố tôi ứa nước mắt cầm đồng giấy 5 hào:

 

- Cậu giúp em thế này nhiều quá, em không dám nhận.

- Thôi chú cầm cả đong gạo - Rồi cậu đi về luôn.

Cả nhà bàng hoàng, bà tôi, bố mẹ tôi không hiểu tại sao cậu lại cho nhiều tiến thế.

Tối hôm đó trong bữa cơm, bố tôi nói:

- Kỳ này cậu Hoàn đến chơi, từ cử chỉ đến lời nói có nhiều khác lạ, chững chạc lắm.

Bà tôi bảo:

Cậu đi làm thợ là người ăn cơm của thiên hạ thì phải học được nhiều cái hay chứ.

Bố tôi nói:

- Có lẽ cậu là người của "Hội kín" (Hội kín là hoạt động Việt Minh) mới dám nói đến Nhật, Tây, những điều quốc cấm và cậu giúp mình một lúc nhiều tiền như vậy, đúng là cảnh nghèo giúp đỡ cảnh nghèo.

Từ hồi còn nhỏ tôi vẫn thường ra chơi nhà ông bà ngoại, có lần ngủ lại, kỳ này thỉnh thoảng cậu còn cho gọi tôi ra chơi, thường lấy trái cây ở vườn cho ăn. Có hôm hai cậu cháu còn ăn ốc luộc, lạc luộc. Cậu hỏi về học hành, bạn bè, đi chơi bời những dâu, quen ai. Cậu kể chuyện những bạn nhỏ ở các làng cậu đi làm thợ cho nghe, nhiều chuyện hấp dẫn lắm.

Một hôm cậu gọi ra, tôi vừa bước chân đến cổng, cậu Hoàn từ trong nhà ra nắm vai tôi, nói dõng dạc:

Cháu đứng chơi ở cổng này thấy ai vào thì gọi cậu ơi có khách, để cậu và các bác bàn chuyện xây nhà cho cụ lý bên làng Bún Thượng.

Chơi lâu quá phát chán, chỉ chờ họp xong nghe cậu kể chuyện, tôi nghĩ cách gọi:

- Cậu ơi, lâu quá con về đây!

Cậu ra lấy tay dí dí vào đầu tôi

- Chơi tý nữa, cậu sắp xong rồi. Câu nói cho nghe chuyên hay lắm.

Tôi nán lại đến khi họp xong, các ông các bác ra về mỗi người đi một ngả, ai cũng xoa đầu tôi, cháu ngoan lắm, người nào vẻ mặt cũng hồ hởi.

Tiếp đến 4-5 lần sau có thêm một ông cậu nữa là ông Đinh Quang Chiến, ông chỉ hơn tôi 8 - 9 tuổi nhưng tôi phải goi bằng cậu vì ông là em con chú mẹ tôi và một ông nữa là Nguyễn Vũ Văn con cụ Đô Thiệu người làng, hai ông cùng là thợ xây với cậu Đinh Quang Hoàn, có buổi họp kéo dài lắm. Để khỏi buồn chán tôi mang theo sách học ra đọc theo lời cậu tôi bày cho. Qua nhiều lần canh gác kết hợp thái độ hồ hởi của các ông các bác, tôi suy nghĩ có lẽ cậu là người của "Hội kín" thật, tôi đánh bạo hỏi:

Cậu và các ông, các bác họp bàn gì mà kín đáo thế, bàn về xây nhà thì có gì mà phải kín quá hay là cậu là người của Hội kín?

Cậu tôi trừng mắt lấy tay bịt mồm tôi:

- Cấm không được nói Hội kín, hội hở nhé, bọn lý dịch nó biết nó cắt lưỡi, bắt bỏ tù đấy.

- Cháu chỉ hỏi cậu để biết thôi, chứ có nói với ai đâu mà cậu ngại.

- Thế đã nói với bố và gia đình chưa?

Tôi lắc đầu:

- Không!

- Có nói với đứa bạn nào không?

- Không!

Cậu tôi nói:

Thế là đúng, là tốt, những đứa bép xép là đứa trẻ hư, cháu có học lại thật thà thế là tốt - Và đột nhiên cậu hỏi:

- Thế cháu cho những người ở Hội kín là không tốt ư?

Tôi nghĩ hôm cậu đến nhà nói chuyện với bố mẹ và giúp 5 hào bố chả khen cậu tốt và nghĩ cậu là người của Hội kín -Tôi trả lời:

- Hội kín mà như cậu thì tốt quá.

Cậu hỏi tiếp:

- Thế cháu có muốn vào Hội kín không?

Tôi chả suy nghĩ gì trả lời luôn:

- Có, có cậu ạ!

Cậu trừng mắt dọa vào Hội kín phải bàn việc kín đáo, lộ ra là bọn Tây, Nhật, lý trưởng, chánh tổng nó bắt tù, nó giết đấy.

Tôi hỏi:

- Cậu làm gì mà ghê gớm thế, có phải việc đi cướp của giết người đâu, hay việc đánh Nhật, đánh Tây.

- Ai lại kéo nhau đi cướp là tội đấy. Đây là việc bàn nhau đánh Tây đuổi Nhật cứu nước, cứu nhà.

Hôm cậu chơi ở nhà cháu cậu nói cháu cũng nghe đấy, bọn Tây, Nhật, chánh tổng, lý trưởng nó cướp của đè nén dân mình đói khổ cùng cực. Bố mẹ cháu, hai chú cháu làm ăn quần quật quanh năm mà cơm độn sắn, độn ngô không đủ mà ăn, các em cháu ốm chết vì không có thuốc chữa chạy, đã đến lúc phải đánh đuổi chúng nó đi.

- Cháu có muốn làm việc này không?

Tôi thích quá ôm cổ cậu:

- Cậu cho cháu đi với, từ nay cháu là người trong Hội kín của cậu.

Cậu nắm tay tôi và ôn tồn nói:

- Được rồi, có dám cầm dao chém thằng Tây không?

- Cháu dám.

Cậu lại nói:

 

- Tốt lắm, có gan dám làm. Nhưng để vài tuổi nữa, nay cháu còn nhỏ, cần phải làm việc canh gác cho cậu và các bác họp, đúng với tuổi của cháu đấy! Nhưng có một điều còn quan trọng hơn cầm dao chém Tây là phải giữ kín không được nói với ai là gác cho cậu họp và những điều cậu nói với cháu ngày hôm nay, có giữ được không?

- Cháu giữ được.

- Giữ được thì phải thề.

Cậu giơ bàn tay lên ngang thái dương hô:

- Xin thề!

Cậu bảo tôi làm theo, tôi cũng giơ bàn tay lên:

- Xin thề!

Tôi hô xong câu thề, tự nhiên òa lên khóc vì cảm động quá, vui sướng quá, mình trở thành người của Hội kín rồi.

Cậu hỏi:

- Sao cháu lại khóc, sợ à!

- Không! Con sướng quá vì từ nay con là người của Hội kín rồi.

Cậu nói:

- Nay về phải làm việc giúp bố mẹ và phải tiếp tục học thêm, xin bố học chữ quốc ngữ để đọc được sách báo... Cháu lại biết cả chữ Nho, sau này sẽ giúp cho cháu nhiều lắm đấy. Bây giờ cậu có muốn học cũng không thể học được, vì phải kiếm sống cháu ạ!

Từ đó tôi tiếp tục làm nhiệm vụ canh gác cho cậu và các ông, các bác họp, cho đến ngày Tổng khởi nghĩa.

Từ đầu năm 1943 tôi bắt đầu thôi học chữ Nho ở nhà làm việc giúp mẹ, nhưng vẫn giấu không cho bố tôi biết. Một hôm ông đi làm về sớm thấy tôi mang giỏ cua về, ông hỏi, tôi trả lời ấp úng. Cô em gái tôi nói hết, ông nổi cơn lôi đình bắt tôi nằm đánh cho một trận nên thân, ông vừa nói vừa khóc:

- Bố đã thất học chịu cảnh hèn hạ, con cũng theo bố ư, hở con?! Bố biết con thương bố thương mẹ, ngày mùa bố cho con gặt thuê làm mướn để con biết làm ruộng, bố còn định dạy cho con biết cày bừa, gieo mạ để sau này con là người dù có phải làm thuê làm mướn nhưng mình là người có học, người ta không khinh rẻ, bắt nạt ăn hiếp mình được, lẽ ra hết mùa, con phải ôn bài, sửa soạn lại sách vở, tiếp tục đi học chứ. Con đã hứa với bố sao con không làm như vậy?

Tôi vừa khóc vừa nói:

- Con thương bố quá, với lại con học đến nay đã viết được Văn tế tổ họ và đọc được Gia phả, biết hết tên tổ tiên rồi, bố cho con đi làm giúp bố.

Ông lại gầm lên:

Con học đủ rồi, con lại đi kéo xe như bố và hai chú có phải không? Bố còn sức bố còn làm được, nhà ta còn có bữa cơm bữa cháo, con phải cố gắng mà đi học, khi nào hết chữ thầy mới thôi. Bây giờ thì phải học, con nghe không?

Tôi thương bố quá vừa khóc vừa nói:

- Vâng ạ!

Bố tôi ngừng tay và bảo đi rửa mặt, ông đem giỏ cua định đổ xuống ao nhà bên cạnh, bà tôi can ông mới chịu.

Đêm đó ngủ hai bố con tâm sự, tôi xin bố cho đi học chữ quốc ngữ, vì chữ Nho tôi đã học hết Tứ thư (Đại học, Trung dung, Luận ngữ, Mạnh tử) và mấy bộ sử như: Đại Việt sử và vài pho sử Trung Quốc (Hạ, Thương, Chu, Hán Cao Tô), chỉ còn Ngũ Kinh (Thi, Thư, Dịch, Lễ, Xuân Thu) chỉ cần đọc chỗ nào khó thì cứ đến hỏi thầy, không cần phải đến trường vẫn học được. Còn về chữ quốc ngữ nếu không được học thì nhiều cái mình không biết, bọn con nhà giàu nó khinh rẻ mình lắm. Đấy bố xem, những bảng yết thị, bố cáo cả xóm cứ xúm lại nghe mấy đứa biết chữ quốc ngữ nó đọc vanh vách mình đứng nghe mà thèm.

Bố tôi nghe ra và nhân kỳ nghỉ hè, ông dẫn tôi đến thầy giáo Hào xin học. Thầy vui lòng tiếp nhận. Tôi rất chăm học, tiếp thu nhanh, tính tình lại thuần nhã nên được bạn bè yêu mến. Thầy Hào nổi tiếng là người dạy tốt và rất nghiêm khắc, được nhà nước bảo hộ Pháp và phong kiến phong tặng hàm Cửu phẩm Văn giai. Thầy rất quý mến tôi và chăm chút dạy bảo, biết tôi là con nhà nghèo nên thấy thương lắm. Trước khi hết 3 tháng hè, thầy cho tôi đến ngủ ở nhà thầy để học buổi tối. Tôi càng học càng tiến bộ, thầy hỏi tôi:

- Hết học hè con có lên trường với thầy không?

Tôi đáp:

- Con muốn lên trường học thêm quá nhưng nhà con nghèo lắm không theo được.

Thầy đã gặp bố tôi và tôi được theo học niên khóa 1943-1944. Nhà tôi cách trường 5 ki-lô-mét nên giữa trưa phải ăn nghỉ tại đó để chiều học tiếp. Một số bạn nhà khá giả họ ăn cơm nắm với thịt cá, tôi chỉ có nắm cơm độn ngô, sắn, có hôm độn hạt mít. Có bạn vừa quý tôi vừa thương, nhường cơm, thịt cho, tôi từ chối rất khéo không để bạn phật ý.

Sắp đến ngày thi con cái nhà khá giả được may quần áo đẹp xênh xang, còn nhà tôi không kiếm đâu ra tiền để chi phí các thủ tục, chụp ảnh, giấy tờ... Anh em chú bác bàn nhau học thế là đủ lắm rồi, thế là chữ Nho cũng đã đủ, quốc ngữ cũng đã đủ, ở nhà đi làm được rồi. Riêng bố tôi không nghe, dù thế nào cũng phải cho tôi đi thi. Tôi thương bố và rất băn khoăn có nên đi thi không? Thầy giáo thấy tôi mấy buổi học phân tán tư tưởng, ông gặng hỏi, tôi thưa thật chuyện.

Thầy nói với tôi:

- Con về thưa với bà và bố mẹ mọi việc thi cử thấy thu xếp đâu vào đấy rồi, bố mẹ cứ để con đi thi. Bố tôi về khen ông giáo tốt quá, thương người thật sự, nhà ta có phúc gặp được thầy đồ Dậu. Được thầy học động viên, năm đó tôi đi thi đỗ bằng "Sơ học yếu lược". Cả gia đình và dòng họ vô cùng hân hoan vì tôi là người đầu tiên trong dòng họ có bằng quốc ngữ "Sơ học yếu lược" có chức vị "hương sinh" trong xã, không phải đi lính, đi phu tạp dịch, cả họ tự hào, bố tôi vô cùng sung sướng.

Tiếp đến việc vui thứ hai, mẹ tôi sinh em bé trai đặt tên là Khuất Duy Độ; chiều hôm trước mẹ vẫn đi bán rau ở chợ làng, sáng hôm sau đã sinh em. Em Độ có khuôn mặt giống em Thát, từ khi mới sinh đến khi được một năm, em rất ngoan, ăn no là ngủ, thức dậy là chơi, hay cười, da dẻ hồng hào, được một năm đã tập tễnh đi và bập bẹ nói. Bà tôi khen, nuôi thằng Độ nhàn nhất cả nhà. Cả họ rất mừng, bà ngoại và cậu dì tôi đều nói ông trời đền lại anh chị, cho cháu Độ thay mấy anh nó đã mất!

Đột nhiên tai họa lại ập đến, em Độ bị rối loạn tiêu hóa, bụng cứ trướng lên, ăn không tiêu, chân tay phù nề, thầy lang cắt hết loại thuốc này đến thuốc khác. Tôi còn đi đến xóm Tây cuối làng xin cây mía giòn làm thang thuốc mà em vẫn không khỏi, được một tháng thì em Độ mất. Kỳ này bố tôi phát điên thực sự. Bao nhiêu bát đĩa ông đập vỡ hết, ông vác dao chặt phá cây ăn quả trong vườn, các chú tôi, bà nội, rồi các ông bà láng giềng khuyên can mãi ông mới nguôi - ông chỉ nói có một câu: "Tôi có ăn ở thất nhân thất đức, tôi có phải là người con bất nghĩa bất hiếu đâu mà trời đất, tổ tiên đồi xử với tôi như thế này". Mẹ tôi thì cứ nằm khóc suốt ngày, riêng bà nội và bà ngoại tôi rất vững vàng, bình tĩnh nấu cơm nước thu dọn gia đình, khuyên giải bố mẹ tôi yên tâm đi làm còn nuôi các con và mẹ già, còn việc họ hàng nữa. Dần dần bố mẹ tôi cũng nguôi ngoai...

Ngày ngày qua đi, anh em tôi lớn dần, đặc biệt cô em gái tôi rất ngoan. Tôi bắt đầu đi làm việc thực sự nên bố mẹ tôi yên tâm hơn. Nhưng bố tôi vẫn khuyên tôi tiếp tục học chữ Nho, mượn sách của thầy về đọc. Tôi tranh thủ các buổi tối mượn chuyện quốc ngữ về đọc cho cả nhà nghe, truyện Tam quốc, Truyện Kiều, Nhị Độ Mai, Tống Trân Cúc Hoa... Sự đầm ấm vui tươi của gia đình trở lại, có hôm vui bố tôi còn hát mấy câu chèo, cả nhà vui vẻ.

Quân Nhật nhảy vào thay chân, giặc Pháp đầu hàng. Giặc Nhật cướp đoạt thóc lúa đưa vào kho dự trữ chiến tranh, bắt dân ta nhổ lúa non để trồng đay, trồng lanh... đàn áp khốc liệt, dân ta một cổ hai tròng! Tháng ba ngày tám ập đến..., sưu thuế đòi phải nộp, chức dịch, tuần phiên, ngày đêm hối thúc, người nghèo quá phải bỏ làng ra đi, hai chú tôi bỏ trốn đi làm phu mỏ thiếc Tuyên Quang. Trên trục đường 11 (nay là dường 32 Hà Nội - Sơn Tây), và đường 21 bis Thạch Thất bắt vào đường 32 đi Sơn Tây) người chết đói nằm rải dọc đường. Gia đình tôi, làng tôi, huyện Thạch Thất tôi cũng nằm trong cảnh đó, đói đến nỗi cám nuôi lợn cũng không có để ăn, phải ăn cả củ chuối, thân cây đu đủ. Hai chú tôi đi phu không chịu nổi phải bỏ trốn về bị sốt rét (gọi là ngã nước) ốm yếu không còn sức để làm việc, áo quần rách bươm, chấy, rận như sung, lại không có ăn, cả nhà chỉ còn mình bố tôi đi kéo xe tay ngày được tiền ngày không. Bố mẹ tôi gầy rộc chỉ còn da bọc xương, hàng ngày tôi đi ra đồng nhặt rau khúc, rau cải ma, rau má... bắt cua, ốc phụ thêm nhưng rồi cũng hết vì cả làng đi hái nhặt; ngày nào trong làng cũng có đám ma, có đám chỉ còn giát giường, hoặc bó bằng chiếu đem chôn. Có gia đình chết hết không còn ai, cả xã có tới hơn 400 người chết đói, thôn xóm tiêu điều, nạn trộm cướp xảy ra như cơm bữa. Tôi còn nhớ, hôm đó đêm sáng sao, khoảng 9, 10 giờ đêm, tự nhiên con chó nhà tôi nó sủa dữ dội, có vẻ như có trộm, tôi và bố tôi vác gậy và con dao phát bờ từ trong nhà ra, thấy người ôm quả mít từ vườn nhà tôi chạy ra. Tôi vác gậy xông ra định chặn lại, bố tôi kéo tay tôi nói: "Thôi con ạ, người ta đói quá phải làm việc này, đói làm bậy mà, quả mít xanh có đáng bao nhiêu". Tôi nghe theo lời ông, hai bố con lại vào giường ngủ. Tôi trằn trọc không ngủ được, vừa thương bố vừa cảm phục lòng nhân từ của bố.

Hai chú tôi ngày càng đau yếu lại bị sốt rét hành hạ, đói không được ăn. Ngày rằm tháng 2 năm Ất Dậu tức 28-3-1945, chú Khuất Duy Cắng, đói quá, mệt quá và thèm ăn nữa, chú nói với mẹ tôi: "Chị cho em bát cháo". Mẹ tôi vét nồi được lưng bát, chú húp được hai miếng cháo cám nấu với rau cải ma lõng bõng nước. Miếng thứ ba vừa bưng lên miệng, chú ngã vật tắt thở. Tôi khóc thét gọi: "Bà ơi, bố ơi, chú hai chết rồi". Mẹ tôi sợ quá ngồi như người mất hồn. Bố tôi lay gọi chú, bà tôi hú hồn hú vía chú tôi. Chú ba tôi (ông Ba Đàn) lúc này cũng đau ốm nằm ở giường bên không dậy được cũng gọi anh hai ơi tỉnh dậy đi. Nhưng chú tôi ra đi thực sự rồi! Bà tôi òa khóc gọi: "Cắng ơi, con bỏ mẹ con đi thật hở con ôi! Con cướp công mẹ thật hở con ơi!". Bố tôi buồn rầu, mặt ông sắt lại, ông cho gọi các anh em trong họ đến mai táng cho chú tôi.

Hơn 1 tháng sau hôm đó cũng buổi tối ngày 23 tháng 3 năm Ất Dậu (5-4-1945), chú thứ ba là Khuất Duy Đàn, sau cơn sốt rét vừa đói vừa kiệt sức, chú chỉ kịp nhìn tôi, tay vẫy vẫy tôi lại, tôi vừa cầm tay chú thì tự nhiên tay chú rời khỏi tay tôi rơi xuống giường. Tôi hốt hoảng gọi bà, bố ơi chú chết rồi. Bố tôi hét thật to lấy hai tay đấm ngực: "Thằng Đản này, thằng anh xấu hổ, hèn hạ này không cứu mạng được hai em để hai em chết đói, anh xấu hổ quá hai em ơi!". Hai em tha thứ cho anh, bố ơi! Ông ơi! Tổ tiên ơi! Có thấu tình cảnh này cho con không?". Bố tôi hét càng to và đấm vào ngực, đập đầu vào vách nhà. Bà tôi lúc này tỏ ra cứng rắn, giữ bố tôi lại rồi gọi cả mẹ tôi và anh em tôi ôm chặt bố tôi. Bà tôi nói với bố tôi: "Không phải tội của con mà là tội của mẹ, mẹ không lo lắng được cho các em, để vợ chồng con phải gánh vác tất cả, mẹ biết con thương các em, lo lắng cho các em hết sức, nhưng nhà mình nghèo quá biết làm sao được. Các em nó ra đi nó cũng biết hết cả đấy, nó không oán trách vợ chồng con đâu... Bây giờ con phải bình tâm lại để còn nuôi các cháu, cho mẹ trông cậy, con còn là trưởng họ, là trụ cột của gia đình ta. Con phải vững vàng mới được, ngày xưa bố con mất mẹ thắt lưng buộc bụng nuôi ba anh em con, chín tuổi con đã cùng mẹ gánh vác việc nhà việc họ. Bây giờ con phải vững vàng lên để nhà ta vượt qua đận khó khăn này".

Bố tôi vẫn khóc nhưng không đập phá nữa và ông nói:

- Con xin nghe mẹ, con thương mẹ quá!

Cả bà tôi, bố tôi, mẹ tôi và anh em tôi đều khóc, được mấy phút bố tôi tỉnh táo, đi gọi anh em trong họ và mua chịu chiếc quan tài lo mai táng cho chú Đàn tôi.

Đến giữa tháng 4 năm Ất Dậu lúa đồng đã trổ bông, nạn đói càng hoành hành, gia đình tôi lúc này cùng kiệt quá. Bố mẹ tôi bàn với bà nội, bà ngoại không còn cách nào cứu vãn khỏi chết đói, chỉ cầm cự non một tháng nữa được gặt là đỡ, nhưng lấy gì để ăn, lại còn nợ hai chiếc áo quan mai táng hai chú tôi, đành dứt ruột bán em gái tôi năm đó 13 tuổi đi làm con nuôi cho bà Tư Triệu ở thôn Hương Lam lấy 200 đồng. Gia đình bà Tư rất tốt, ông ấy mất sớm, bà ăn ở nhân đức, em tôi làm con nuôi bà được bà nuôi dưỡng tử tế. Tôi nhớ hôm hai bố con đưa em sang cùng với bà ngoại tôi giao cho bà Tư, tôi là người viết văn tự bán em theo mẫu có sẵn, bố tôi nhận 200 đồng tay run run, bà bảo đếm đi, bố tôi không dám đếm. Bà cho hai bố con ăn bữa cơm không phải độn, có thịt gà, có rau, ngon quá. Nhưng nhìn thấy em ngồi tư lự không sao nuốt được, bố tôi cũng vậy, cả bà ngoại tôi cũng bần thần. Lúc ra về, bà ngoại tôi ở lại với em để động viên nó, chưa ra khỏi cửa nó đã gọi bố ơi, nó không khóc, nhưng vẻ mặt thảng thốt. Cả hai bố con tôi ngoảnh mặt nhìn em, không thể nào nhấc nổi chân, cứ đứng như trời trồng, nước mắt tràn ra. Được một lúc bố tôi trấn tĩnh đến nắm tay em nhắc đi nhắc lại: "Con ở đây với bà Tư, nghe lời bà và làm việc giúp bà thật chu đáo, thế là con thương bà, bố mẹ và anh con đấy, bố và anh về nhé". Em tôi gật đầu nhưng nước mắt vẫn chảy dài trên má...

*

Ngày 18 tháng 8 năm 1945, dưới sự chỉ đạo của Xứ ủy Bắc Kỳ, trực tiếp là ông Nguyễn Văn Lộc Xứ ủy viên đã quyết định huy động lực lượng quần chúng biểu tình vũ trang giành chính quyền ở huyện Thạch Thất. Tôi cũng vác con dao phát bờ cùng cậu tôi và đoàn người tham gia cướp chính quyền.

Tại xã Đại Đồng, khi nhận được lệnh đã huy động đội tự vệ chiến đấu gấp rút lên đường tham gia cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở huyện Thạch Thất. Cùng với việc tổ chức huy động quần chúng làm áp lực, ban lãnh đạo cuộc khởi nghĩa đã vận động công chức và binh lính địch đầu hàng giao chính quyền huyện cho Việt Minh. Lực lượng của ta tiến vào huyện sở, lúc này tri huyện đi vắng, chỉ còn một trung đội lính dưới quyền chỉ huy của một viên cai và viên thừa phái cai quản về mặt hành chính. Quần chúng mang theo gậy gộc, giáo mác mỗi lúc một đông tiến vào huyện sở. Thấy những người đại diện của Việt Minh đến nhà, viên thừa phái rất hoảng sợ, vì thế khi ta đặt vấn đề giao huyện sở cho cách mạng anh ta tán thành ngay. Sau khi đã thuyết phục được những người cầm đầu công chức và binh lính địch đồng ý giao huyện sở cho Việt Minh, quân khởi nghĩa mang theo cờ đỏ sao vàng tiến vào huyện sở.

Cuộc bàn giao giữa đại diện chính quyền cũ và ban lãnh đạo cuộc khởi nghĩa được lập thành biên bản. Viên thừa phái thay mặt chính quyền cũ ký vào biên bản bàn giao cho Việt Mình súng đạn, sổ sách. Tình hình trong huyện Thạch Thất diễn ra nhanh gọn.

Sau khi tham gia khởi nghĩa giành chính quyền huyện Thạch Thất, ngay chiều 18 tháng 8 năm 1945, được sự chỉ đạo của huyện bộ Việt Minh, tổ Việt Minh và tự vệ chiến đấu xã Đại Đồng đã trở về tiến hành việc giành chính quyền ở xã. Trống đình nổi lên dồn dập nhịp ba tiếng liên hồi. Dân làng kéo ra rất đông chật cả Đại đình, Đại bái, ngoài sân, ngoài đường. Cờ đỏ sao vàng được kéo lên dưới nắng chiều thu rực rỡ. Mọi người lắng nghe cán bộ Việt Minh đứng giữa đại bái đình nói về cao trào tổng khởi nghĩa nổ ra khắp cả nước, giải thích chính sách của Mặt trận Việt Minh là đoàn kết toàn dân đánh đuổi Nhật, Pháp, giành quyền độc lập tự do cho dân tộc Việt Nam.

Cùng lúc đó, một tổ chức chiến đấu được phân công vào nhà lý trưởng tịch thu trước bạ, sổ sách. Trước áp lực của quần chúng cách mạng, lý trưởng đã tuân theo nộp hết giấy tờ, sổ sách, trước bạ cho đại diện cách mạng. Cuộc khởi nghĩa ở xã Đại Đồng chiều ngày 18 tháng 8 năm 1945 đã giành được thắng lợi không vấp phải sự chống đối nào của các thế lực thù địch. Với thắng lợi này, Đại Đồng đã trở thành một trong những xã khởi nghĩa giành chính quyền sớm nhất của huyện Thạch Thất trong Cách mạng tháng Tám.

Ngày 2 tháng 9 năm 1945, hàng chục vạn nhân dân từ ngoại thành kéo về Quảng trường Ba Đình. Các nhà máy, các cửa hiệu to, nhỏ đều nghỉ việc. Chợ búa không họp, mọi hoạt động sản xuất, buôn bán của thành phố tạm ngừng. Nhân dân thủ đô từ già trẻ, gái trai đều xuống đường. Mọi người đều muốn mình có mặt trong ngày hội trọng đại đầu tiên của đất nước độc lập.

Sau đó, tôi được các chú, các anh công nhân ở Hà Nội về kể chuyện lại Ngày lễ Độc lập ở Quảng trường Ba Đình mà lòng tôi háo hức, mừng vui không tả xiết như được chứng kiến sự kiện đã diễn ra ngày 2-9 tại Hà Nội.

Lịch sử đã sang trang. Một kỷ nguyên mới bắt đầu: Kỷ nguyên của độc lập, tự do. Khí thế của Cách mạng tháng Tám như tiếp thêm sức cho thế hệ trẻ chúng tôi. Tôi tham gia hoạt động, vận động thanh niên, vận động nhân dân tham gia ngày bầu cử Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp.

Tôi còn nhớ vào ngày mùng 6 tháng 1 năm 1946, cùng với nhân dân cả nước, nhân dân xã Đại Đồng đã nô nức tham gia bầu cử Quốc hội khóa I. Hòm phiếu bầu cử được đặt tại đình làng Đại Đồng. Toàn thể mọi người dân từ 18 tuổi trở lên, không phân biệt trai gái, giàu nghèo, tôn giáo đều được quyền đi bầu cử. Đây thực sự là ngày hội dân chủ đầu tiên trong lịch sử dân tộc và lịch sử quê tôi. Mọi người đều bình đẳng, lần đầu tiên được tự tay cầm lá phiếu đi bầu những người đại diện cho mình vào cơ quan cao nhất của Nhà nước.

Chỉ ít ngày sau khi nước ta tuyên bố độc lập, ở miền Bắc, gần 20 vạn quân Tưởng Giới Thạch do Mỹ giật dây mượn tiếng vào tước vũ khí quân Nhật, nhưng thực chất là âm mưu xâm lược miền Bắc nước ta. Núp dưới bóng quân đội Tưởng, bọn Việt Nam quốc dân đảng của Vũ Hồng Khanh, Nguyễn Tường Tam, Nguyễn Hải Thần về nước âm mưu lật đổ Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa để lập nên một chính phủ bù nhìn theo Tưởng lệ thuộc Mỹ.

Ở miền Nam, quân đội Anh kéo đến, chúng núp dưới danh nghĩa phe Đồng minh vào giải giáp vũ khí quân đội Nhật, nhưng thực ra là giúp Pháp thực hiện âm mưu cướp lại nước ta một lần nữa.

Ở các thành phố, thị xã quan trọng vẫn còn đến 6 vạn quân Nhật còn nguyên vũ khí. Tuy đã đầu hàng nhưng chúng vẫn ngoan cố, che chở cho quân Pháp và theo lệnh quân Anh đánh ta nhiều nơi ở miền Nam. Chưa bao giờ nhân dân ta phải đối phó cùng một lúc với nhiều kẻ thù hung bạo và xảo quyệt như vậy.

Trước tình hình mới này, ngày 3 tháng 3 năm 1946, Bác Hồ cùng Trung ương Đảng đã họp và quyết định chủ trương "hòa để tiến". Chủ trương này dẫn đến việc ký Hiệp định sơ bộ ngày 6 tháng 3 năm 1946 giữa Việt Nam và Pháp. Trong đó, chính phủ Pháp công nhận nước Việt Nam dân chủ cộng hòa trong "khối liên hiệp Pháp", là một quốc gia tự do có chính phủ, nghị viện, quân đội và tài chính riêng. Chính phủ Việt Nam cho Pháp đưa 15 nghìn quân vào một số điểm ở miền Bắc Việt Nam trong thời gian là 5 năm để thay thế quân đội Tưởng Giới Thạch.

Sau này khi trưởng thành, tôi có điều kiện nghiên cứu thấy chủ trương "hòa để tiến" mới hiểu được đây là một chủ trương cực kỳ sáng suốt của Bác Hồ. Người khéo lợi dụng mâu thuẫn giữa Mỹ, Tưởng và Anh - Pháp để hoàn hoãn với quân Tưởng ở phía Bắc, đánh Pháp ở phía Nam. Nay Người lại khéo lợi dụng mâu thuẫn giữa Pháp và Tưởng để hòa hoãn với Pháp, gạt 20 vạn quân Tưởng ra khỏi miền Bắc Việt Nam.

Lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam, một đạo quân lớn đã vào chiếm lĩnh các địa bàn chiến lược trên đất nước ta với ý đồ xâm lược và lật đổ, rút cục chúng đã rút về nước. Với việc ký Hiệp định sơ bộ ngày 6 tháng 3, ta đã phần hóa được kẻ thù, thoát ra khỏi tình thế bị cô lập, giành chủ động, tập trung mũi nhọn đấu tranh với kẻ thù chính là thực dân Pháp xâm lược, tranh thủ thời gian chuẩn bị kháng chiến.

21 giờ 15 phút ngày 18 tháng 12, tướng Moóc-li-e gửi tối hậu thư đòi tước vũ khí của tự vệ, công an ta và đòi ta trao quyền kiểm soát trật tự an ninh ở Hà Nội cho Pháp. Nếu sáng 20 tháng 12 năm 1946, những điều kiện trên không được chấp thuận thì chúng sẽ hành động.

Như vậy là quân Pháp đã trong tư thế đưa lực lượng để đánh chiếm các cơ quan đầu não, các vị trí quân sự và hành chính của ta, vô hiệu hóa chính quyền của ta. Chính thực dân Pháp đã tuyên chiến với ta, chúng dự định sẽ đánh bại ta trong thời gian ngắn nhất, bắt đầu từ sáng ngày 20 tháng 12 năm 1946.

 

Đêm 19 rạng ngày 20 tháng 12, Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh được phát đi trong cả nước. Người nêu rõ: "Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa. Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ...".

Hưởng ứng lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân xã Đại Đồng cùng cả nước khẩn trương chuẩn bị mọi mặt sẵn sàng bước vào cuộc kháng chiến. Cuối tháng 12 năm 1946, cán bộ, nhân dân xã Đại Đồng đón phái đoàn Chính phủ do Bác Tôn Đức Thắng dẫn đầu về truyền đạt Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Bác Hồ. Phái đoàn Chính phủ có ba người đi bằng một chiếc xe thùng 2 bánh, ngựa kéo. Thấy phái đoàn chúng tôi huy động thanh thiếu niên trong xã đi cổ động, nhân dân tới tập trung ở đình rất đông, ngoài ra còn một số nhà dân ở các xã lân cận biết tin cũng kéo đến; số người dự hôm ấy lên đến mấy nghìn người.

Thay mặt phái đoàn Chính phủ, Bác Tôn đã truyền đạt nội dung Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Bác Hồ. Bác Tôn còn nói rõ cho nhân dân hiểu được âm mưu gây chiến của thực dân Pháp và giải thích cho nhân dân hiểu đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện và trường kỳ của Đảng. Động viên nhân dân đoàn kết, hăng hái tăng gia sản xuất, tích cực ủng hộ kháng chiến đánh đuổi giặc Pháp, giữ gìn nền độc lập của Tổ quốc.

Sự có mặt của Bác Tôn đến xã Đại Đồng thể hiện quyết tâm và biện pháp chỉ đạo sâu sát của Trung ương, đã có tác dụng rất to lớn, cổ vũ tinh thần của nhân dân xã Đại Đồng cũng như nhân dân cả nước tin tưởng vào đường lối trường kỳ kháng chiến nhất định thắng lợi của Đảng.

 

Sau 2 tháng chiến đấu, các đơn vị bộ đội chủ lực của ta đã giam chân quân Pháp ở Hà Nội. Cuối tháng 2 năm 1947, bộ đội ta được lệnh rút ra khỏi Thủ đô để bảo toàn lực lượng. Sau khi chiếm được Hà Nội, quân Pháp bắt đầu nống ra các huyện ngoại thành và vùng lân cận. Ở phía bắc, địch đóng các bốt ở Phùng - Sấu - Giá. Từ các vị trí này, hàng ngày bọn địch nã pháo vào các xã xung quanh và thường xuyên đưa quân đi càn quét, bắt giết nhân dân ta.

Giữa năm 1949, địch đã lập được hội tề ngụy quyền ở xã. Anh Kiều Văn Cúc, Khuất Văn Tiêu, Kiều Văn Doãn giao cho tôi phải thâm nhập vào nhân viên bảo an xã để hoạt động hai mặt. Khoảng tháng 10 năm 1949, tôi bắt liên lạc với Đại đội 354 thuộc Tiểu đoàn 3 Trung đoàn 48. Đơn vị cử anh Ngữ về diệt tên lý trưởng xã Đại Đồng. Tên này là ác ôn khét tiếng trong vùng, làm tay sai cho Pháp. Nó hay ra chợ để thăm dò và cho người của nó đe nẹt, nghe ngóng những người dân lành. Tôi theo dõi và nắm được quy luật của nó, cứ khoảng 3 giờ chiều nó hay ra ngoài chợ. Đại đội 354 cử anh Ngữ về ém sẵn nhà ông Tư Gia xóm Đình Rồi. Anh còn đem theo một khẩu súng ngắn và hai quả lựu đạn theo tôi ra chợ. Khi anh Ngữ ra đến chợ thì tên lý trưởng đã đi mất. Công việc này đành để lại.

Lần thứ hai, đơn vị cử anh Thành, anh ở một cơ sở xóm Rộc. Anh Thành mang theo khẩu tiểu liên Sten và hai quả lựu đạn. Lần này, được báo rõ hai bên đối mặt nhau trên đoạn đường xóm Rộc, anh Thành giương súng bắn, đạn không nổ, anh liền rút lựu đạn ném. Nhưng tiếc thay hai quả lựu đạn cũng không nổ. Nó chạy và anh Thành cũng rút về cơ sở an toàn.

Để trả thù cách mạng, tên lý trưởng huy động lực lượng phá cơ sở, bắt anh xã đội phó. Chúng tra tấn đánh đập anh rất dã man, sau đó chúng lùng bắt tôi và một số anh: Kiều Bá Trung, Kiều Văn Chỉ, Vũ Văn Hữu, Khuất Bá Lạo, Khuất Duy Luyện, Khuất Văn Học, Khuất Văn Bổi, Khuất Văn Hiếu, Đến nhà anh Kiều Văn Doãn, không thấy anh Doãn, chúng bắt bố anh là ông Kiều Văn Thư. Chúng đến thôn Hương Lam bắt ông He (ông Bài), ông Nguyên, ông Hiệt và ông Cúc.

Chúng đưa anh em chúng tôi xuống huyện, giam vào một phòng rộng khoảng hơn chục mét vuông. Trực tiếp điều khiển tra tấn tôi là tên Thiều, thư ký cho quận trưởng. Một tên nữa là Mùi thông ngôn (phiên dịch) cho Tây. Bốn tên lính da den thay nhau tra khảo.

Đòn đầu tiên là quay điện. Chúng dùng máy điện thoại quay tay, buộc hai dây vào tai rồi quay. Mỗi lần chúng quay tôi cảm giác như những tảng đá lớn đổ xuống đầu tôi vậy. Sau đòn phủ đầu, nó dừng lại hỏi:

- Mày làm gì cho Việt Minh?

Tôi đã quy thuận rồi, tôi không làm gì cho Việt Minh cả.

Thấy tôi trả lời vậy, tên Thiều nói:

- Thằng này ngoan cố, đánh đòn tiếp xem nó gan góc được mấy trận nữa.

Thế là hai thằng Tây đen lại lôi tôi ra đánh tiếp; lúc đầu tôi còn có cảm giác đau, sau đó đau quá tôi ngất đi. Nó đổ nước vào mặt, tôi tỉnh dậy nó lại hỏi:

- Mày làm gì cho Việt Minh?

- Tôi không làm gì cho Việt Minh cả

Rồi chúng chuyển sang đánh tôi bằng gậy tre đực. Chúng quật túi bụi vào người không trừ chỗ nào cả. Hai thằng Tây đen đánh dữ dằn, nhưng không kinh bằng tra điện vì nó đánh vài cái đầu còn biết đau, quật đến cái thứ 4, thứ 5 trở đi thì toàn thân tê dại, không còn cảm giác đau nữa. Chúng đánh chán thì thôi. Trong đầu tôi khi đó chỉ tâm niệm đã dám đánh Tây, mình không giết được nó thì nó giết mình là lẽ thường tình. Cuối cùng nó phải lấy được lời khai của tôi để làm án.

- Trước ngày quy thuận mày làm gì?

- Tôi phụ trách thiếu nhi xã (tôi nghĩ không nói thì nó đã biết do bọn tề ngụy khai báo).

Đó là lời khai duy nhất của tôi.

Chúng giam anh em chúng tôi trong một căn phòng rộng chừng 15 mét vuông mà có tới 45 người không ai được nằm chỉ có ngồi. Ở đây người cao tuổi nhất 75 tuổi, trung bình là 40, 50 tuổi còn lại khoảng 19, 20 tuổi như tôi. Cửa đóng kín, chỉ để một lỗ hình quả trám bằng bàn tay. Khổ nhất là khát nước. Ai bị tra điện lại càng khát rát họng. Tôi thấy một tên lính gác da den xem ra còn nhân đạo. Anh ta kéo thùng nước hắt qua ô cửa hình quả trám, người thì há mồm cho nước vào cổ họng, người thì lấy áo hứng nước rồi vắt vào miệng cho nhau.

 

Chúng giam anh em chúng tôi ở huyện hai tháng. Chúng sàng lọc, kiểm tra rất kỹ và liệt mấy chúng tôi là hoạt động chính trị, thành án rồi đưa lên nhà giam căng 42 ở thị xã Sơn Tây. Ở nhà tù Sơn Tây khoảng 1 tháng chúng đưa cả đoàn về nhà tù Hỏa Lò, Hà Nội. Vào đến nhà tù Hỏa Lò nó bắt chúng tôi cạo trọc đầu, mặc áo tù nhân, có số tù bằng gỗ đeo ở ngực. Nhà tù Hỏa Lò nền nếp, ngăn nắp hơn ở Sơn Tây. Sạp ngủ bằng xi măng, có cả căng tin. Ban ngày chúng bắt anh em đi lao động ở khu Bộ Quốc phòng (đường Nguyễn Tri Phương bây giờ). Ở nhà tù Hỏa Lò có tổ chức đảng hoạt động rất mạnh. Địch cài những tên phản bội, trà trộn với anh em trong tù để theo dõi những người chúng khả nghi. Hễ phát hiện được tên nào chắc chắn làm tay sai cho Pháp, đêm đến chúng tôi trùm chăn đánh chết, cả những tên lính ác ôn chúng tôi cũng tổ chức kéo vào đánh chết. Sáng báo với cai ngục không hiểu làm sao nó chết. Quân Pháp rất cay, biết ta diệt nhưng không làm gì được.

 

Thời gian này tôi tích cực hoạt động trong tù. Các anh đưa cho tôi tài liệu: Nguồn gốc chủ nghĩa cộng sản, gia đình thần thánh để tôi nghiên cứu.

Ngày 19 tháng 5 năm 1950, quân Pháp tiến công Hà Nam, chúng huy động tù binh đi phục vụ chiến đấu, mang đạn cho binh lính Pháp. Tối hôm ấy, lợi dụng quân Pháp ngủ, tôi, anh Bút, anh Bộ bí mật trốn ra.

Đi được mấy cây số chúng tôi đến một cánh đồng đang vào mùa gặt, thấy anh em chúng tôi đầu trọc, mặc quần áo tù, những người dân đang gặt họ sợ. Tôi nói với họ:

Xin bà con đừng sợ, anh em chúng tôi là Việt Minh bị lính Pháp bắt vào tù. Chúng tôi vừa vượt được ra ngoài xin bà con giúp đỡ.

Thấy tôi nói như vậy mọi người có vẻ yên tâm, cử người đưa chúng tôi đến gặp ông Khoa - Chủ tịch xã Hòa Mạc, huyện Lý Nhân. Ông Khoa rất tốt, cho chúng tôi ăn ở trong nhà, kiếm cho chúng tôi mỗi người một bộ quần áo thay quần áo tù. Ngày hôm sau, anh Thược trốn ra được nhưng bị địch bắn vào bụng, rất may chỉ vào phần mềm, không thủng ruột. Vì anh Thược bị thương nên chúng tôi phải ở nhà ông Khoa 13 ngày. Khi vết thương của anh Thược đã đỡ, chúng tôi xin phép ông Khoa ra đi. Ông Khoa hỏi:

- Các anh về đâu?

- Chúng tôi về Nho Quan, nghe nói ở đó đang có tuyển quân.

- Thế thì các anh đi, nhưng anh Thược vết thương chưa khỏi, nên ở lại một thời gian nữa rồi đi sau.

Chia tay ông Khoa, anh Thược, chúng tôi lên đường. Cho đến bây giờ tôi vẫn mang ơn ông Chủ tịch xã Hòa Mạc, người đã giúp đỡ, cưu mang bốn anh em chúng tôi trong những ngày gian truân vất vả. Sau này tôi có đôi lần về xã Hòa Mạc, huyện Lý Nhân - Hà Nam để tìm lại ông Khoa nhưng không hiểu sao người dân ở đây đều không nhớ ông nữa. Gần 50 năm, biết bao đổi thay, dù chưa tìm gặp được, nhưng tôi vẫn luôn luôn ghi nhớ công ơn của ông.

Vừa đi đường, chúng tôi vừa hỏi người dân đường về Nho Quan. Người ta nói: "Các anh bơi qua bến Đọ sông Đáy sang bên kia là vùng tự do, rồi hỏi tiếp".

 

Chúng tôi cảm ơn người dân qua đường và đến bến sông. Sông Đáy đoạn này rộng ước chừng chỉ ngót 200 mét, nước chảy lờ đờ. Trước đây tôi bơi rất giỏi, nhưng bị tù lâu ngày, sức khỏe giảm sút, nên bơi đến giữa sông nhìn lại đã xa bờ, nhìn bờ bên kia cũng còn xa, tôi cảm thấy đuối sức. Tôi bơi ngửa dưỡng sức. Một toán lính Pháp đi tuần thấy tôi bơi chúng bắn mấy loạt, tưởng tôi đã chết nên bỏ đi. Khi tôi thấy lưng mình chạm cỏ, nhìn bờ bên kia không thấy lính Pháp, nó đã đi xa. Anh Bút trong bụi ngô chạy ra kéo tôi lên bờ. Nghỉ một lát, anh Bút giục:

- Cố lên! Vào làng kiếm cái gì ăn cho ấm bụng đã. À sẵn ngô đây anh em mình lấy một ít ăn đường.

- Không được. Ngô của dân. Họ phải đổ bao nhiêu công sức mới làm ra được, mỗi người chỉ được lấy 3 bắp, mỗi bữa ăn nửa bắp rồi uống nước.

Mọi người làm theo ý kiến của tôi.

Khi chúng tôi đến gần khu vực chùa Ông, gặp mấy người gánh thuốc lào lên Tây Bắc bán, thấy mấy anh em chúng tôi khỏe mạnh, một người hỏi:

 

- Các anh có quẩy thuê không?

Tôi trả lời:

- Có!

- Quê các anh ở đâu?

- Chúng tôi ở Sơn Tây.

- Bọn tớ đi qua Hòa Bình, các cậu có đi không?

- Các anh cho chúng tôi đi cùng với.

Chúng tôi quẩy thuê cho mấy anh ấy. Bữa đầu tiên các anh cho chúng tôi mỗi người hai cái bánh chưng. Mấy ngày không hạt cơm vào bụng giờ lại được ăn bánh chưng, tôi thấy ngon đến thế. Ăn hết hai cái bánh chưng tôi cảm thấy khỏe lên nhiều.

Chúng tôi tiếp tục đi mấy ngày liền thì đến Lương Sơn, Hòa Bình. Rất may tại đây chúng tôi gặp người đi buôn hàng gánh. Tôi còn nhớ có chị tên là Xuân. Chị chỉ cho chúng tôi về thôn Mẽ nơi lãnh đạo, chính quyền xã tôi tản cư ra đó hoạt động. Đi được nửa ngày chúng tôi đến khu vực xã Đại Đồng tản cư. Tôi gặp anh Doãn, anh Nho, anh Tiêu (Chủ tịch xã) và một số cán bộ xã tại đó.

 

Thấy chúng tôi, anh Doãn mừng lắm. Anh hỏi tình hình, tôi kể lại chặng đường từ khi bị bắt lên huyện Thạch Thất cho đến khi trốn tù trở về. Nghe xong, anh Doãn nói:

- Thế thì tốt rồi. Bây giờ các cậu muốn trở về hoạt động tiếp không?

Tôi trả lời:

- Tôi về đây là mong được tham gia hoạt động tiếp. Các anh bố trí công tác cho tôi.

Anh Doãn bảo:

- Tiến vẫn đảm nhiệm phó ban tuyên truyền xã.

Mấy hôm sau chúng tôi theo anh Doãn, anh Nho, anh Tiêu về cơ sở xã Đại Đồng nắm dân, nắm tình hình thực hiện nhiệm vụ mới.

Cuối tháng 6 năm 1950, tôi về đến xã. Thời gian này địch kiểm soát rất gắt gao, ngày nào chúng cũng đi tuần, lùng sục từ đầu làng tới cuối làng. Tôi còn nhớ tối ngày 27 tháng 8 năm 1950, tôi về nhà gặp bố. Hai bố con ôm nhau mà khóc, bố tôi bảo:

 

- Bố lo cho con quá Tiến ơi! Từ ngày con bị bắt, bị tù đày bố không nhận được tin con, bố ăn không ngon, ngủ không yên. Đêm nào bố cũng thức chờ con trở về. Hôm nay con đã về nhà, con lành lặn thế này, bố yên lòng rồi. Thế nào, chúng đánh con có đau không?

- Mọi người chúng bắt được đều bị tra tấn dã man, con chịu được không sao đâu bố ạ! Bà và bố mẹ ở nhà thế nào? Các em con có khỏe không?

- Bà, bố mẹ và các em đều khỏe. Mẹ con ngày nào cũng khóc nhớ con, còn các em luôn nhắc tới con.

Hai bố con hàn huyên một lúc, rồi bố tôi nghiêm giọng nói:

- Tiến này, bây giờ dịch càn quét gắt gao, gặp được thanh niên nó bắt đi lính. Không may mà chúng bắt được con một lần nữa thì nó giết, nó đánh đập, có sống được cùng tàn phế hoặc nó bắt đi lính cho Pháp thì nhục nhã cả họ. Con nghe bố ra ngoài đó đi Vệ quốc đoàn, có hy sinh cũng vinh quang. Con đừng lo, ở nhà mọi việc đã có bố rồi.

 

- Vâng! Mai con sẽ báo cáo mấy anh ở xã cho con đi bộ đội.

Sáng hôm sau tôi đến gặp anh Doãn, anh Tiêu, anh Nho, mấy anh em luộc buồng chuối xanh cùng ăn. Tôi nói:

- Em báo cáo các anh cho em đi bộ đội, em có sức khỏe muốn được vào bộ đội chủ lực để đánh giặc trả thù chứ ở địa phương hoạt động thế này, lỡ nó bắt được, nó giết hoặc bỏ tù một lần nữa, hoặc ép đưa vào lính chống lại đồng bào mình thì nhục lắm. Bố em đã động viên em vào bộ đội rồi.

Anh Nho động viên:

- Chú mày có sức khỏe nên đi bộ đội em ạ. Các anh có tuổi rồi, sức lại yếu nên hoạt động ở địa phương thôi.

Thế là anh Tiêu - Chủ tịch xã viết giấy giới thiệu tôi nhập ngũ vào Trung đoàn 48.

Cuộc đời quân ngũ đến với tôi từ ngày 4 tháng 9 năm 1950.

Chương hai: Tham gia cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp

Ngày 4 tháng 9 năm 1950, tôi chính thức nhập ngũ vào Đại đội 354 Tiểu đoàn 884 (nay là Đại đội 9 Tiểu đoàn 3) Trung đoàn 48. Lúc này đơn vị đóng quân ở Thạch Thất, Sơn Tây. Trang bị cả đại đội có một khẩu trung liên, 16 khẩu súng trường, 2 khẩu Sten (loại súng này bắn nửa băng thì đạn rơi trước mặt). Mỗi người có bao xe nhiều nhất có 15 -20 viên đạn, bắn xong phải nhặt vỏ đạn giữ lại đưa về cho quân giới tái tạo sử dụng tiếp.

Bài học đầu tiên trong quân ngũ là tập bắn súng. Cán bộ tiểu đội hướng dẫn cho cánh lính mới chúng tôi cách lấy đường ngắm cơ bản và yếu lĩnh, động tác khi bắn súng. Chúng tôi được tập đi tập lại như thế suốt một tuần và tập đội ngũ... Ngoài ba môn bắn súng, ném lựu đạn, đâm lê, chúng tôi tập đào công sự... Kỹ thuật xây dựng trận địa được các đơn vị trong trung đoàn hết sức chú trọng vì địa bàn chiến đấu của Trung đoàn là vùng đồng bằng, địa hình trống trải, địch sử dụng phi pháo nhiều thì việc xây dựng công sự trận địa nhanh chóng, bí mật sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến việc bảo vệ lực lượng và hoạt động tác chiến của Trung đoàn.

Sau khi huấn luyện xong, tôi được điều về bộ phận nuôi quân. Trung đội có 36 người, có 2 chiếc nồi đồng điếu, bộ đội ăn bằng gáo dừa, thức ăn chủ yếu là tép khô. Tuy có buồn nhưng tôi tự nhủ: "Hãy cố gắng!". Hàng ngày tôi đi chợ mua tép khô rồi vào rừng kiếm măng nứa, măng giang, lấy khế chua về nấu cho anh em. Một hôm, tôi bắc nổi cơm, vì nóng nên tuột tay rơi nồi xuống đất, bị méo một góc. Trung đội trưởng thấy vậy, quát mắng tôi nặng lời. Tôi tự ái, bỏ cơm không ăn. Hôm sau, tôi lên xin Trung đội trưởng cho tôi đi chiến đấu. Lúc đầu, anh còn giải thích:

- Nhiệm vụ nào cũng vinh quang, người đi chiến đấu cũng phải có người nấu cơm cho bộ đội mới có cơm ăn, có sức đánh giặc.

Tôi nói:

- Em đã làm hơn chục ngày rồi, em không quen. Em xin Trung đội trưởng cho em được đi chiến đấu. Trung đội cử người khác thay em, phù hợp hơn.

 

Thấy tôi có vẻ kiên quyết, cuối cùng Trung đội trưởng cũng nhất trí cho tôi về trung đội. Tôi cảm ơn Trung đội trưởng rồi ra về.

Trận đánh đầu tiên tôi được tham gia là trận chống dịch càn vào làng Hạ Băng, huyện Thạch Thất ngày 19 tháng 10 năm 1950. Sau khi diệt bốt Thạch Thán, đơn vị đang tập trung tuyên truyền cho nhân dân thì địch kéo đến. Đại đội khẩn trương triển khai đội hình. Tôi nằm cạnh Tiểu đội phó Thức. Anh hỏi tôi:

- Tiến nhìn thấy địch chưa?

- Em nhìn thấy rồi.

- Bắn đi!

Tôi đang quỳ xuống chưa bắn được viên nào. Thấy mát lạnh bên đùi trái, tôi nhìn xuống thấy rách toang một nửa ống quần bên đùi trái và máu chảy đầm đìa. Anh Thức nhìn thấy tôi máu ra nhiều, anh nói:

- Tiến bị thương rồi, chạy về phía sau đi.

Tôi từ trên bờ đê lăn xuống chân đê. Chạy được mấy bước, tôi giật mình: Còn khẩu súng! - Thấy tôi quay lại, anh Thức hỏi:

 

- Không về phía sau, còn quay lại làm gì?

- Em còn khẩu súng (mất súng trong chiến đấu bị kỷ luật rất nặng).

- Anh lấy rồi, chạy đi!

Tôi chạy vào làng, gặp dân chạy giặc rất đông, có một chị bế cháu nhỏ đang chạy, thấy tôi máu chảy đầm đìa, chị nói:

- Anh bộ đội ơi! Anh bị thương máu ra nhiều.

Chị giật chiếc yếm đang mặc đưa cho tôi và bảo:

- Anh buộc vào đi.

Tôi cảm ơn chị và cúi xuống băng vết thương. Băng xong tôi cùng theo dân làng. Đến đồi Trúc Động thì tôi kiệt sức chui vào một bụi cây nằm lả đi.

Khoảng 5 giờ chiều tôi được nhân dân cáng vào nhà dân.

Có một ông cụ lấy nõn cau rịt vào vết thương cho tôi. Tối ông nấu cho tôi một bát cháo cá, ông bảo:

- Con ăn đi mà lấy sức.

 

Tôi đỡ bát cháo nóng ông đưa mà lòng trào dâng cảm động. Đêm hôm đó tôi nghỉ lại gia đình người nông dân ở Trúc Động. Chiều ngày hôm sau đơn vị tìm thấy tôi. Lúc này vết thương của tôi đã sưng tấy không thể lê nổi chân, anh em khiêng về bệnh xá Trung đoàn 48 ở Chợ Bến, Mỹ Đức, Hà Đông.

Bệnh xá Trung đoàn 48 ở trong nhà đồng bào Mường. Thương binh rất đông, không có băng vải, quân y dùng nước muối để rửa vết thương và dùng lớp ruột của bẹ chuối sấy khô để băng. Trước khi băng, y tá rắc ít bột sun-pha-mít. Vết thương của tôi to bằng nửa bàn tay. Vết thương tuy vào phần mềm, nhưng sâu và bắt đầu có mủ, có giòi.

Theo quy dịnh thứ 2, thứ 4, thứ 6 cứ cách 1 ngày mới được thay băng vết thương của tôi sáng thay băng thì chiếu đã ướt đẫm hôi hám, nên tôi cứ thay băng hàng ngày. Một lần chị y tá tên là Định, phát hiện chị vẫn băng cho tôi nhưng nói đùa đẹp giai thế mà cũng đi băng lậu. Tôi tự ái lên gặp anh Tâm y sĩ phụ trách xin về bằng được.

Anh Tâm kiểm tra lại vết thương của tôi và nói:

 

- Vết thương của cậu tuy là phần mềm nhưng rất to, không thể ra viện được, phải ở lại điều trị ít nhất là nửa tháng nữa, có khi phải mất cả tháng.

Tôi nói:

- Báo cáo anh cho tôi về đơn vị, tôi đã đi lại được, tôi về điều trị tại đơn vị.

Thấy tôi kiên quyết, cuối cùng y sĩ Tâm cũng đồng ý giải quyết cho tôi ra viện. Tôi còn nhớ trong giấy ra viện anh Tâm ghi: Vết thương còn phải điều trị tiếp xin về. Cho về, cấp 7 ngày gạo ăn đường...

Tôi về đến đơn vị thì trung đoàn cũng vừa kết thúc chiến dịch Sơn Tây. Đại đoàn 320 vừa diệt hơn 700 tên địch, thu vũ khí đủ trang bị cho một tiểu đoàn. Ta đã phá vỡ một mảng lớn tề, dõng ở phía bắc tỉnh Sơn Tây mà thực dân Pháp đã tốn công xây dựng trong hơn 2 năm chiếm đóng. Trung đoàn 48 với vị trí là đơn vị chủ công của Đại đoàn đã góp phần xứng đáng tiêu diệt 5 trong số 9 vị trí địch, diệt và bắt hơn 500 tên, thu 1 pháo 105 ly và nhiều súng đạn bổ sung cho lực lượng chiến đấu của Đại đoàn.

 

Sau chiến dịch Sơn Tây, tháng 3 năm 1951, Bộ Tổng tư lệnh giao nhiệm vụ cho Liên khu 3 mở chiến dịch Hà - Nam -Ninh nhằm tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch, phá tan ngụy quân, đẩy mạnh chiến tranh du kích, tranh thủ nhân dân giải quyết một phần lương thực.

Ngày 28 tháng 5 năm 1951, Tiểu đoàn Thanh Lũng tiến công dồn Võ Giàng (Hà Nam), Tiểu đoàn Đống Đa tiến công đồn Kỳ Cầu, cả hai trận đánh diễn ra nhanh gọn, bộ đội ta hoàn toàn làm chủ trận địa. Sau khi diệt xong hai đồn Võ Giàng và Kỳ Cầu, chỉ huy trung đoàn ra lệnh cho Tiểu đoàn Thanh Lũng và Tiểu đoàn Đống Đa tổ chức trận địa phục kích tại làng Mai Cầu, tiêu diệt một đại đội địch, phá hủy 7 xe lội nước. Sau đó Tiểu đoàn Thanh Lũng tổ chức phục kích tại làng Trung Thứ diệt 120 tên lính Âu - Phi.

Trong khi 2 Tiểu đoàn Đống Đa và Thanh Lũng đánh địch thì Tiểu đoàn 884 của chúng tôi làm nhiệm vụ kiểm chế pháo địch. Tiểu đoàn tổ chức phân đội súng cối 60 ly đưa sát vào những trận địa pháo địch, hễ địch bắn pháo là bộ đội ta bắn vào trận địa pháo, làm cho pháo thủ của địch phải chui vào hẩm không dám ra bắn pháo nữa, tạo điều kiện thuận lợi cho các đơn vị bạn hoàn thành nhiệm vụ.

Đầu tháng 10 năm 1951, Tiểu đoàn 884 chúng tôi tổ chức chống càn tại làng Tam Dương, Thanh Lỗi, huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình. Thời gian này tôi làm liên lạc Đại đội 737 do anh Ngô Huy Biên - Đại đội trưởng; anh Nguyễn Kim Tuấn - Tiểu đoàn phó đi trực tiếp với đại đội tôi. Cuộc chiến đấu diễn ra vô cùng ác liệt, Tiểu đoàn trưởng và Chính trị viên tiểu đoàn bị thương nặng phải rời khỏi trận địa. Anh Nguyễn Kim Tuấn lên thay tiếp tục chỉ huy Tiểu đoàn chiến đấu. Với tác phong điềm tĩnh, quả đoán và hành động xông xáo dũng cảm, anh kịp thời điều chỉnh thế trận, tổ chức hỏa lực lần lượt bẻ gãy từng mũi tiến công của địch và đánh bại hoàn toàn cuộc tấn công của địch, bắt tù binh, thu vũ khí.

Bài học đầu tiên tôi học được ở anh Nguyễn Kim Tuấn (tên thường gọi của anh là Kim Tuấn) là lòng dũng cảm, sự điềm tĩnh và quả đoán trong lúc nguy cấp; và thế nào là chiến đấu dũng mãnh xả thân vì danh dự của đơn vị, vì trách nhiệm của bản thân, vì sinh mạng của đồng chí, đồng đội!

 

Hạ tuần tháng 11 năm 1951, dịch thực hiện kế hoạch đánh chiếm Hòa Bình và khu vực sông Đà, Ba Vì. Trung ương Đảng và Quân ủy Trung ương nhận định: Đây là cuộc tiến công đầu tiên của dịch vào vùng tự do của ta sau hơn 1 năm bị động đối phó. Trước mắt địch chiếm được một địa bàn quan trọng cắt đứt giao thông của ta giữa Việt Bắc với Liên khu 3 và cô lập Tây Bắc, đặt ách thống trị lâu dài ở Hòa Bình. Nhưng địch có nhiều khó khăn do lực lượng bị phân tán trên một tuyến dài đột xuất, công sự không vững chắc, địa hình không thuận lợi cho việc sử dụng binh lực lớn. Lực lượng địch ở đồng bằng thiếu hụt nên ở đây có nhiều sơ hở.

Về phía ta, địch chiếm Hòa Bình có gây cho ta những khó khăn, nhưng đã tạo ra thời cơ để ta tiêu diệt sinh lực địch ở chính diện cũng như ở vùng hậu địch. Căn cứ vào nhận định trên, chiến dịch Hòa Bình được mở trên hai mặt trận.

Để phối hợp với các đơn vị bạn trên Mặt trận Hòa Bình, Đại đoàn 320 được lệnh đẩy mạnh hoạt động ở vùng địch hậu, đồng thời sử dụng một lực lượng đánh địch ở khu vực Chợ Bến.

Trong khi Trung đoàn 64 tiêu diệt 2 đại đội Âu - Phi ở khu vực Tứ Đền (gần Chợ Bến) làm cho quân địch vô cùng hoang mang, thì Trung đoàn 48 nhận được lệnh cấp tốc hành quân trên một chặng đường hơn 100 ki-lô-mét từ Thanh Hóa ra Hòa Bình để đánh cứ điểm Đồi Sim. Chỉ huy Trung đoàn 48 vừa tổ chức cho bộ đội hành quân vừa tiến hành nắm địch.

Đồi Sim là một căn cứ nằm trên đường 21, gần Chợ Bến và Tứ Đền. Tại Đồi Sim địch có 2 đại đội lính lê dương tinh nhuệ, do mới chiếm đóng nên hệ thống công sự trận địa, vật cản của địch còn sơ sài. Trung đoàn sử dụng Tiểu đoàn Thanh Lũng và Tiểu đoàn Đống Đa bao vây và bất ngờ tiến công. Sau gần 1 giờ chiến đấu, Trung đoàn 48 đã tiêu diệt và bắt 2 đại đội lính lê dương, thu toàn bộ vũ khí và phương tiện chiến tranh của địch.

Mất Tứ Đền và Đồi Sim, quân địch tăng cường cho khu vực Chợ Bến nhiều binh lực và phương tiện chiến tranh, nhằm củng cố Chợ Bến thành một khu vực phòng ngự vững chắc. Ngày 27 tháng 11 năm 1951, Đảng ủy Mặt trận phía nam đồng bằng Bắc Bộ họp nhận thấy hệ thống phòng ngự của địch ở khu vực Chợ Bến đã được củng cố, tăng cường lực lượng, yếu tố bất ngờ trên hướng này không còn nên quyết định chuyển Trung đoàn 48 và Trung đoàn 52 Đại đoàn 320 tiến công phía nam Ninh Bình, khu vực Phát Diệm; Trung đoàn 64 vào hoạt động vùng sau lưng địch ở Hà Nam.

Đầu tháng 12 năm 1951, Trung đoàn 48 tổ chức nắm địch ở khu vực Phát Diệm. Thị trấn Phát Diệm là khu căn cứ nằm sâu trong hậu phương của địch. Ở đây dân cư khá đông đúc, các vị trí địch đóng xen kẽ với nhà dân, gây nhiều khó khăn cho hoạt động tác chiến của ta. Lực lượng địch đóng ở đây, ngoài lính Âu - Phi còn có nhiều ngụy bình, vệ sĩ là người địa phương nên rất thông thạo địa hình, chúng luôn cải trang lẫn trong nhà dân, nên ta khó phát hiện. Tuy vậy, địch cũng có những sơ hở, lực lượng địch tuy đông nhưng lại dàn mỏng trên một tuyến dài, không có chiều sâu, từng đoạn bị sông ngòi chia cắt nên chúng khó cơ động binh hỏa lực để đối phó với ta và dễ bị ta chia cắt bao vây, tiêu diệt. Do đóng quân trong thị trấn, công sự của địch chủ yếu dựa vào cấu trúc nhà cửa của dân nên không có cụm cứ điểm vững chắc yểm hộ cho nhau hạn chế.

Sau khi nghe Đảng ủy và Chỉ huy Trung đoàn 48 báo cáo tình hình địch, những thuận lợi và khó khăn của ta, Đảng ủy Đại đoàn 320 nhận thấy phương án dùng Trung đoàn 48 thọc sâu vào Phát Diệm là có cơ sở giành thắng lợi lớn. Để Trung đoàn 48 yên tâm đánh địch ở Phát Diệm, Bộ Tư lệnh Đại đoàn 320 sử dụng Trung đoàn 52 tổ chức trận địa phục kích đánh quân tiếp viện từ Phúc Nhạc, Chùa Cao về chi viện giải vây cho Phát Diệm bị đánh. Đồng thời, Bộ Tư lệnh đại đoàn ra lệnh cho Trung đoàn 64 đẩy mạnh đánh địch ở Hà Nam để phân tán sự đối phó của chúng.

Phương châm tác chiến của Trung đoàn 48 xác định là: Tiến quân nhanh, đánh nhanh, giải quyết nhanh, phát triển thắng lợi nhanh và lui quân nhanh.

Sau cuộc hành quân hơn 20 ki-lô-mét dưới trời mưa dầm gió bắc, luồn qua các đồn bốt, tháp canh của địch, đội hình Trung đoàn đã có mặt tại các địa bàn xuất phát tiến công địch. 3 giờ sáng ngày 10 tháng 12 năm 1951, Trung đoàn trưởng Lê Quân ra lệnh nổ súng tiến công quân địch trong thị trấn Phát Diệm. Tôi được biết anh Nguyễn Phú Vị đã chỉ huy đơn vị bí mật tiếp cận quân địch trước giờ nổ súng. Khi có lệnh, cả đơn vị xông lên bắn chết hai tên lính gác rồi nhanh chóng vượt rào chia làm ba mũi đánh vào sở chỉ huy địch, khu máy điện và khu thông tin. Chỉ ít phút sau ta đã diệt xong dịch và làm chủ khu vực này. Kết quả, trên hướng Tiểu đoàn Thanh Lũng đã tiến công và làm chủ các vị trí nhà Lê Phát, nhà công binh, nhà hát Thọ Lạc, nhà chỉ huy của tên trung úy Pháp Sa-gôn.

Trong lúc đó, ở phía tả ngạn sông Trì Chính. Tiểu đoàn Đống Đa tiến công đánh chiếm khu Thượng Kiệm, Phú Chiểu, nhà Hai Vòi, doanh trại đại đội 5 tiểu đoàn ngụy số 18.

Kết quả trận đánh vào thị trấn Phát Diệm, Trung đoàn 48 đã diệt gọn 7 đại đội địch, làm chủ thị trấn một ngày và một đêm.

Để phát huy thắng lợi, Đại đoàn lệnh cho Trung đoàn 48 tiếp tục đẩy mạnh hoạt động phá vỡ vành đai bảo vệ của địch. Tiểu đoàn Đống Đa được tăng cường 2 khẩu sơn pháo 75 ly có nhiệm vụ tiến công tiêu diệt căn cứ Yên Mô Thượng. Tiểu đoàn Thanh Lũng có nhiệm vụ phục kích địch ở Xuân Thành, diệt quân tiếp viện cho Phát Diệm.

 

Trong khi Tiểu đoàn Đống Đa tiêu diệt căn cứ Yên Mô Thượng, thì Tiểu đoàn Thanh Lũng cùng bộ đội địa phương tổ chức trận địa phục kích ở làng Xuân Thành cách Phát Diệm 2 ki-lô-mét.

Quá trưa ngày 16 tháng 12, địch cho một tiểu đội quân ngụy vào làng Xuân Thành dò xét tình hình nhưng bị chúng tôi bắt gọn, quân địch ở Phát Diệm vẫn không hay biết. Nửa giờ sau, hai đại đội của tiểu đoàn Âu - Phi số 22 tiến vào, bộ đội ta chờ cho quân địch lọt hẳn vào trận địa phục kích mới đồng loạt nổ súng. Quân địch bị ta đánh vỗ mặt, đánh bên sườn và chặn phía sau nên hoảng loạn. Sau gần 1 giờ chiến đấu, Tiểu đoàn Thanh Lũng đã diệt và bắt toàn bộ quân địch.

Những ngày tiếp theo, các đơn vị của Trung đoàn 48 liên tiếp tiêu diệt, bức rút các vị trí Lợi Hòa, Bình Xá, Điền Hộ. Chỉ trong mấy ngày ta đã bắt và giải tán 113 ban tế, xây dựng lại được nhiều tổ chức, cơ sở đảng và quần chúng.

Sau nửa tháng hoạt động ở Ninh Bình, Trung đoàn 48 đã cùng các đơn vị bạn trong Đại đoàn 320 và lực lượng vũ trang địa phương giải phóng lần lượt huyện Yên Mô, một phần huyện Kim Sơn. Từ đó, xây dựng, củng cố các khu du kích Khánh Thiện, Khánh Trung, Khu du kích 1 và 2 huyện Kim Sơn, nối thông hai khu du kích Yên Khánh và Yên Mô, làm thay đổi so sánh lực lượng có lợi cho ta trên địa bàn tỉnh Ninh Bình.

Tháng 1 năm 1952, trên Mặt trận Hòa Bình sau hai đợt chiến đấu của quân ta, lực lượng địch đã bị tiêu diệt và tiêu hao lớn, hơn 8.000 tên địch bị diệt và bị bắt làm tù binh. Các đại đoàn 304, 308 và 312 đã kìm chân và tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực tinh nhuệ của địch và nhiều phương tiện chiến tranh của chúng.

Cuối tháng 1 năm 1952, Đại đoàn 320 chủ trương đưa phần lớn đại đoàn sang tả ngạn sông Hồng, biến hậu phương của địch thành tiền phương của ta. Bộ Tư lệnh đại đoàn quyết định đưa Trung đoàn 48 và Trung đoàn 52 vượt sông Hồng sang hoạt động ở địa bàn tỉnh Thái Bình. Với phương châm tác chiến là: Tích cực, chủ động, phân tán, cơ động linh hoạt, đánh gần.

Trong khi Trung đoàn nhận lệnh chuẩn bị chuyển quân thì địch mở cuộc hành quân lớn vào thôn Văn Thịnh, xã Tiên Yên, huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình. Trung đoàn giao nhiệm vụ cho Tiểu đoàn 884 do Tiểu đoàn trưởng Kim Tuấn chỉ huy tổ chức chống cuộc càn lớn của địch. Nhận được lệnh, chúng tôi khẩn trương làm công tác chuẩn bị, Đại đội 737 của tôi được giao phục kích một cánh quân. Lúc này tôi làm tiểu đội trưởng, giữ một khẩu Tuyn và chỉ huy tiểu đội gồm 12 người, bí mật mai phục đầu thôn Văn Thịnh. Khi quân địch đến, chúng tôi chờ cho chúng vào thật gần mới nổ súng. Ngay loạt đạn đầu, tiểu đội tôi đã diệt gần chục tên địch...

Càng đánh anh em càng hăng, trước sức tiến công của quân ta nhiều tên lính Pháp phải hạ vũ khí giơ tay đầu hàng. Tiểu đội bắt được hơn mười tù binh. Những tên Pháp da trắng bị bắt rất sợ, tên nào cũng khóc, còn những tên da đen, nhiều tên còn nhe răng ra cười. Chắc chúng biết là sẽ được sống đợi ngày về nước.

Tiểu đoàn 884 đã đánh tan cuộc càn của 3 tiểu đoàn địch, diệt hàng trăm tên, bắt hơn 100 tù binh.

Với thành tích xuất sắc đó, Tiểu đoàn 884 được Bộ Tổng tư lệnh tặng thưởng Huân chương Quân công hạng Ba và danh hiệu "Tiểu đoàn Tiên Yên".

Đêm 13 tháng 1 năm 1952, Trung đoàn 48 hành quân từ Ninh Bình theo hướng sang tả ngạn sông Hồng. Đi đầu đội hình là Tiểu đoàn Đống Đa, rồi đến Tiểu đoàn Thanh Lũng. Tiểu đoàn Tiên Yên chúng tôi có nhiệm vụ bảo vệ phía sau đội hình. Sau 5 ngày đêm hành quân vòng tránh hệ thống đồn bốt, tháp canh của địch và vượt qua sông Vạc, sông Đáy và cuối cùng là sông Hồng sang Thái Bình.

Đại đoàn chia làm hai khối: Khối thứ nhất - Đại đoàn bộ, Tiểu đoàn Đống Đa, Trung đoàn 48 vượt sông Hồng lên đất Vũ Thư, tỉnh Thái Bình vào đêm 17 tháng 1 để cùng địa phương chuẩn bị thuyền mảng cho Đại đoàn sang. Bộ phận thứ hai - Trung đoàn 52, một tiểu đoàn sơn pháo 75 ly, 1 tiểu đoàn 12,7 ly, Tiểu đoàn Thanh Lũng và cuối cùng là Tiểu đoàn Tiên Yên chúng tôi sẽ sang sông vào đêm 18 tháng 1 năm 1952.

Tối ngày 18 tháng 1, địch phát hiện cho quân ngăn chặn nên bộ phận thứ hai phải quay lại triển khai lực lượng sẵn sàng đánh địch bảo vệ đội hình và sẵn sàng vượt sông khi có thời cơ.

Tôi được biết, sau khi đặt chân lên đất Thái Bình, Tiểu đoàn Đống Đa đã tổ chức trận địa phục kích đoạn Thanh Nê - Phương Ngải tiêu diệt trung đội lính Âu - Phi. Đến trận tiến công tiêu diệt bốt An Bổi, Tiểu đoàn Đống Đa, được Trung đội nữ du kích do Nguyễn Thị Chiên làm Trung đội trưởng, phối hợp vào cắt hàng rào, đánh bộc phá mở cửa. Cửa mở thông, bộ đội và du kích xông vào đồn bắt 6 tù binh trong đó có tên đồn trưởng.

Trong khi đó, các đơn vị còn bị kẹt ở phía Nam Định đã chủ động tổ chức nhiều trận đánh địch trên quãng đường thuộc làng Hoành Nha, Hoành Lộ, huyện Giao Thủy, Nam Định. Tiểu đoàn Tiên Yên và Tiểu đoàn Thanh Lũng vận dụng nhiều hình thức chiến thuật, phục kích, tập kích, bắn tỉa diệt hơn 200 tên, bắt 40 tên Âu Phi, 90 tên lính ngụy trong đó có tên trung úy Bét-tông, phá hủy 18 xe quân sự, giải phóng 30 người bị địch bắt.

Ngày 27 tháng 1 năm 1952, Trung đoàn 48 tổ chức đánh địch, mở đường vượt sông Hồng sang Thái Bình. Tiểu đoàn Tiên Yên và Tiểu đoàn Thanh Lũng sử dụng lực lượng đánh địch trên bờ và diệt ca nô tuần tiễu dưới sông. Ta đã diệt nhiều tên địch, bắn cháy 2 ca nô, buộc chúng phải giãn ra. Ta tổ chức lực lượng chốt chặn bến vượt hai phía thượng du và hạ du khoảng 1 ki-lô-mét, bảo đảm an toàn cho bộ đội vượt sông. Hàng trăm thuyền nan, bè mảng của nhân dân ven sông Hồng hai tỉnh Nam Định và Thái Bình chở bộ đội qua sông. Đêm 29 tháng 1 năm 1952, Tiểu đoàn Tiên Yên - đơn vị cuối cùng của Trung đoàn 48 vượt sông Hồng an toàn.

Vừa đặt chân lên đất Thái Bình, Tiểu đoàn Thanh Lũng cùng Tiểu đoàn Đống Đa phối hợp với lực lượng vũ trang địa phương chuẩn bị đánh cứ điểm La Cao, một vị trí quan trọng của địch ở nam huyện Kiến Xương...

Những ngày tiếp theo, Trung đoàn 48 tiếp tục tiến công tiêu diệt và bức hàng quân địch trong các cứ điểm Chợ Mới, Cổng Cát, Giao Nghĩa, Vũ Lăng, Bắc Trạch.

Tiểu đoàn Tiên Yên chúng tôi tiến vào phía bắc tỉnh Thái Bình cũng tích cực hoạt động, tiến công tiêu diệt 5 cứ điểm: Buộm, Dốc Văn, Phú Vật, Mỹ Đình và Cúc Đình, mở rộng vùng giải phóng bốn huyện phía bắc tỉnh Thái Bình, sau trận tiêu diệt Buộm, Dốc Văn tôi được kết nạp Đảng.

Chỉ sau 2 tháng hoạt động, Trung đoàn 48 đã góp phần cùng các đơn vị trong Đại đoàn 320 giải phóng hoàn toàn hai huyện Tiền Hải và Kiến Xương, phá vỡ ba phần tư hệ thống chiếm đóng của địch, giải phóng 74 xã với 60 vạn dân.

Tháng 2 năm 1952, chấp hành lệnh của Chỉ huy Đại đoàn, Trung đoàn 48 trở về khu căn cứ ở Kiến Xương, Tiền Hải củng cố lực lượng, tổ chức rút kinh nghiệm chiến đấu trong vùng địch hậu. Những kinh nghiệm đánh phục kích, đánh cứ điểm, đánh giao thông trong những lần chống càn ở vùng địch hậu cũng có những yêu cầu mới đòi hỏi cán bộ, chiến sĩ trong Trung đoàn phải biết lợi dụng địa hình, địa vật, phải bám dân và tranh thủ sự giúp đỡ của dân mới đảm bảo giành thắng lợi.

Cùng thời gian này, ở phía bắc, cánh quân Đại đoàn 316 đã vượt sông Thương, sông Cầu, sông Đuống tiến công địch ở thị xã Bắc Ninh, uy hiếp mạnh đường số 5 và tuyến đường sắt Hà Nội - Hải Phòng. Khu du kích Yên Dũng mở rộng đến Phả Lại, nối liền các khu du kích phía bắc tỉnh Bắc Ninh.

Như vậy, kể từ khi địch nhảy dù đánh chiếm Hòa Bình, ở đồng bằng ta đã giải phóng hơn 4.000 ki-lô-mét vuông với gần 2 triệu dân. Khối ngụy quân, ngụy quyền tan vỡ từng mảng, một số tỉnh trưởng ở Thái Bình, Hà Nam, Ninh Bình, Bắc Ninh, Phúc Yên đã phải chạy trốn về Hà Nội.

Trước tình thế đó, bộ chỉ huy quân Pháp quyết định rút quân khỏi Hòa Bình để đối phó với ta ở đồng bằng, nhất là vùng tả ngạn sông Hồng. Ở Thái Bình, địch tập trung 20 tiểu đoàn bộ binh, tổ chức thành 5 binh đoàn cơ động, với 64 khẩu pháo, 500 xe cơ giới, 6 tàu chiến, 40 ca nô và hàng chục máy bay chiến đấu mở cuộc càn vào bốn huyện Vũ Thư, Kiến Xương, Tiền Hải và Thái Thụy. Trung đoàn 48 và Trung đoàn 52 Đại đoàn 320 được lệnh phối hợp với lực lượng vũ trang địa phương và nhân dân chuẩn bị chống cuộc càn lớn của địch.

Trung đoàn 48 sử dụng Tiểu đoàn, Tiên Yên chúng tôi chặn đánh địch ở đê sông Trà Lý. Ngay trận đầu ra quân, Tiểu đoàn chúng tôi đã diệt gọn 1 đại đội, phá hủy 3 xe cơ giới địch. Tiểu đoàn Thanh Lũng sử dụng 1 trung đội bố tríhỏa lực khống chế mặt sông, bắn chìm 2 ca nô. Quân địch bị chặn trên đê sông Trà Lý và hướng Diêm Điển, các cánh quân khác đánh vào Tiền Hải, Vũ Thư cũng bị đơn vị bạn chặn lại. Ý đồ sử dụng binh lực lớn vây càn chủ lực ta để tiêu diệt Trung đoàn 48, 52 và Bộ Tư lệnh Đại đoàn 320 ở Thái Bình của địch trong ngày đầu ra quân đã không thực hiện được

Ngày 27 tháng 3 năm 1952, Đại đội 737 thuộc Tiểu đoàn Tiên Yên chúng tôi được tăng cường 12 tay súng du kích triển khai lực lượng ở Dưỡng Thông, huyện Kiến Xương. Nhiệm vụ Tiểu đoàn trưởng Kim Tuấn giao cho Đại đội 737 là chặn địch ở làng Dưỡng Thông, làm chậm bước tiến của chúng, tạo điều kiện cho việc sơ tán dân và di chuyển sở chỉ huy Đại đoàn 320.

Mờ sáng, địch tập trung pháo binh và cho 4 máy bay Hen-cát đánh phá dọc đường 39 và các khu vực quanh làng Kinh Nhuế và Dưỡng Thông. Đến 9 giờ 30 phút địch cho 1 tiểu đoàn Âu Phi chia làm ba mũi từ Kinh Nhuế đánh vào làng Dưỡng Thông. Tiểu đội gồm hơn mười tay súng do tôi làm Tiểu đội trưởng được bố trí ở chính diện. Tôi phân công các vị trí và dặn anh em đợi cho địch tiến cách trận địa phục kích của ta chừng 15-20 mét mới nổ súng. Ngay từ loạt đạn đầu tiên, chúng tôi đã loại khỏi vòng chiến đấu hơn 20 tên địch. Bị đòn tiến công bất ngờ, bọn địch chững lại, gọi phi pháo đánh rồi mở liên tiếp nhiều đợt xung phong vào làng Dưỡng Thông. Đại đội 737 đã kiên cường bám công sự chiến đấu, đánh lui tất cả các đợt tiến công của địch.

Chập tối ngày 27 tháng 3, Tiểu đoàn trưởng Kim Tuấn lệnh cho Đại đội 737 chúng tôi rời khỏi làng Dưỡng Thông sang làng An Khang rồi từ đây cơ động về đội hình Tiểu đoàn ở phía nam đường 39.

Trong trận này Đại đội 737 chúng tôi diệt 160 tên địch, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ kìm chân một lực lượng lớn quân địch ở làng Dưỡng Thông để sơ tán nhân dân và sở chỉ huy Đại đoàn sang làng Lưu Phương. Trận này tôi bị thương ở bàn tay trái vết thương khá nặng.

Từ sáng ngày 28 tháng 3, địch cho pháo bắn dữ dội vào các làng còn nằm trong vòng vây của chúng. Suốt từ 9 giờ sáng đến 5 giờ chiều địch tập trung nhiều máy bay đánh phá vào làng Lưu Phương. Sở chỉ huy Đại đoàn đã di chuyển ra ngoài làng từ rạng sáng ngày 28 nên vẫn đảm bảo an toàn và tiếp tục chỉ huy các đơn vị chiến đấu.

Theo lệnh của Đại đoàn, Tiểu đoàn Đống Đa sau khi vượt sông Trà Lý cùng với hơn 3.000 dân an toàn, lực lượng của tiểu đoàn này bố trí chặn địch ở Thần Đầu, Thần Huống. Tiểu đoàn Tiên Yên chúng tôi cũng được lệnh hành quân lên phía bắc huyện Kiến Xương với hơn 2.000 dân, triển khai lực lượng chặn đánh địch trên đê sông Trà Lý.

Trung tuần tháng 4 năm 1952, Tiểu đoàn Thanh Lũng vượt sông Trà Lý bao vây tiêu diệt gọn một đại đội Âu - Phi ở làng Trình Nhất, huyện Kiến Xương. Tiểu đoàn Đống Đa tiến công cứ điểm cầu Sắt huyện Thái Thụy. Tiểu đoàn Tiên Yên diệt gần trăm tên địch trên đê sông Trà Lý.

Với thành tích diệt địch xuất sắc và giúp dân đánh giặc, ngày 15 tháng 4 năm 1952, Trung đoàn 48 Đại đoàn 320 phấn khởi đón nhận thư khen của Bác Hồ. Bác tặng Trung đoàn 48 danh hiệu "Giúp dân đánh giặc", Bộ Tổng tư lệnh tặng Trung đoàn 48 Huân chương Quân công hạng Ba.

Ngày 30 tháng 4 năm 1952, Trung đoàn 48 được lệnh rút ra vùng tự do làm nhiệm vụ củng cố, rút kinh nghiệm chiến đấu. Riêng Tiểu đoàn Tiên Yên chúng tôi do anh Kim Tuấn chỉ huy, được lệnh tiếp tục ở lại Thái Bình hoạt động ở khu vực phía bắc huyện Kiến Xương. Những ngày hoạt động ở đây, Tiểu đoàn Tiên Yên chúng tôi đã vận dụng nhiều hình thức chiến thuật như phục kích khi địch hành quân càn quét bằng cả bộ binh và dùng mìn đánh địch. Tối đến, địch co cụm trong các thôn xóm, chúng tôi chia nhau từng tổ, từng tiểu đội được du kích dẫn đường vào gần nơi chúng đóng quân ném lựu đạn, bắn súng rồi rút lui. Cách đánh này rất có hiệu quả, vừa tiêu hao địch vừa làm cho chúng hoang mang lo sợ bị ta tiến công.

Thời gian này, Trung đoàn cũng được lệnh trở về phía sau củng cố, huấn luyện. Đầu tháng 10 năm 1952, Đảng ủy Đại đoàn tổ chức hội nghị đánh giá kết quả hoạt động trong 9 tháng của năm 1952. Sau đó, từng đơn vị quán triệt nghị quyết Đảng ủy Đại đoàn và họp rút kinh nghiệm, tạo bước chuyển biến mới về công tác cán bộ, đảng viên, chiến sĩ. Đây là bước chuẩn bị quan trọng trong thực hiện nhiệm vụ chiến đấu của đơn vị trước khi Đại đoàn 320 tham gia chiến dịch thu - đông năm 1952.

Sau 4 tháng huấn luyện, củng cố lực lượng, sức mạnh chiến đấu của Trung đoàn đã được nâng cao, tinh thần bộ đội phấn chấn, sẵn sàng nhận nhiệm vụ chiến đấu mới. Trung tuần tháng 11 năm 1952, Trung đoàn nhận lệnh tiến công quân địch ở Phát Diệm, Ninh Bình lần thứ hai.

1 giờ sáng ngày 14 tháng 11 năm 1952, Tiểu đoàn Đống Đa nổ súng đánh chiếm căn cứ Hai Vòi - Thượng Kiệm, mở màn cho đợt tiến công vào Phát Diệm. Địch tập trung hỏa lực bắn mạnh vào cửa mở của ta, chúng còn gọi pháo binh từ Trì Chính bắn sang chi viện. Vượt qua làn đạn địch, một chiến sĩ áp quả bộc phá 30 ki-lô-gam vào lô cốt chính rồi điểm hỏa. Một tiếng nổ dậy đất, khói đen trùm lên lô cốt địch, khẩu đại liên của địch đặt ở lô cốt này im bặt. Bộ đội ta nhanh chóng xông vào căn cứ địch, cả đại đội địch bị ta tiêu diệt.

Cùng phối hợp chiến đấu với Tiểu đoàn Đống Đa ở khu Yên Bình, Tiểu đoàn Thanh Lũng cũng tiến công một đại đội Âu - Phi ở nhà Chánh Tiếp. Sau 30 phút chiến đấu, Tiểu đoàn Thanh Lũng đã tiêu diệt và bắt làm tù binh toàn bộ đại đội Âu - Phi này.

Cuối tháng 11 năm 1952, Đại đoàn 320 quyết định cho Trung đoàn 48 vào hoạt động ở phía nam tỉnh Nam Định. Tiểu đoàn Đống Đa có nhiệm vụ tiêu diệt căn cứ Vô Tình thuộc làng Trung Lao, huyện Trực Ninh, sát đường 21. Tiểu đoàn Thanh Lũng có nhiệm vụ chặn đánh quân tiếp viện của địch.

Đêm 25 tháng 11 năm 1952, Tiểu đoàn Đống Đa tiến công cứ điểm Vô Tình. Do chủ quan, khinh địch, công tác chuẩn bị không tốt nên không nắm được cách bố phòng của địch, trận đánh không thành công, bộ đội bị thương vong. Trung đoàn chỉ thị cho Tiểu đoàn Đống Đa rút kinh nghiệm, phải nắm chắc địch, không được chủ quan, dù đánh vị trílớn hay nhỏ đều phải chuẩn bị chu đáo, tỷ mỷ trước khi nổ súng. Bài học xương máu của Tiểu đoàn Đống Đa cũng được chỉ huy Trung đoàn 48 truyền đạt cho các đơn vị trong trung đoàn.

Sau khi rút kinh nghiệm, Tiểu đoàn Đống Đa được bổ sung vũ khí trang bị. Chỉ huy Trung đoàn trực tiếp chỉ huy tiểu đoàn này đánh cứ điểm Vô Tình. Lần này trung đoàn sửdụng 2 khẩu sơn pháo bắn thẳng chi viện cho bộ đội mở cửa. Đêm 27 tháng 11 năm 1952, được pháo binh tiếp viện, các chiến sĩ Tiểu đoàn Đống Đa xông lên đánh tung các lớp hàng rào, mở đường cho lực lượng xung kích tiến vào căn cứ. Sau 15 phút chiến đấu, Tiểu đoàn Đống Đa hoàn toàn làm chủ cứ điểm Vô Tình, diệt và bắt một đại đội địch.

16 giờ ngày 28 tháng 11 năm 1952, một đại đội Com-măng-đô từ Cổ Lễ kéo xuống tiếp viện cho Vô Tình. Lính Com-măng-đô rất hung hãn. Khi quân địch lọt vào trận địa phục kích, lệnh nổ súng chặn đầu quân địch phát ra, cả tiểu đoàn đồng loạt nổ súng. Bị đòn bất ngờ, đội hình địch hỗn loạn. Sau 20 phút chiến đấu, Tiểu đoàn Thanh Lũng đã diệt gọn đại đội lính Com-măng-đô, chỉ còn lại vài tên sống sót tháo chạy về Cổ Lễ.

Để đối phó với tình hình nghiêm trọng đang diễn ra ở phía nam đồng bằng Bắc Bộ, tướng Xa-lăng vội vã về Nam Định vạch kế hoạch càn quét đánh phá vùng phía nam tỉnh Nam Định. Địch huy động 21 tiểu đoàn thuộc các binh đoàn cơ động số 1, 2, 4, 5 và một bộ phận binh đoàn số 7 với nhiều pháo binh, xe lội nước, tàu chiến và không quân chi viện.

Đêm 1 tháng 12 năm 1952, Tiểu đoàn Thanh Lũng được lệnh đánh vào căn cứ Cổ Lễ, Chợ Quỳ thuộc huyện Nam Trực, tiêu diệt 2 đại đội địch.

Tại làng An Nông, một thôn nhỏ nằm giữa cánh đồng nước huyện Nam Trực, địch sử dụng 2 tiểu đoàn bộ binh, 7 xe lội nước định bao vây tiêu diệt Tiểu đoàn Thanh Lũng. Suốt trong một ngày, địch dùng mọi thủ đoạn đánh phá rồi xua quân tiến vào, nhưng bộ đội ta đã kiên cường bám trụ, bắn chính xác diệt hàng trăm tên địch, bắn cháy một xe lội nước, chặn đứng các cuộc tiến công của chúng. Bất lực trước sự chống trả gan góc, kiên cường của bộ đội ta, đến chiều địch phải rút lui.

Để phá thế bao vây của địch, ngày 4 tháng 12, trung đoàn sử dụng Tiểu đoàn Tiên Yên và một bộ phận Tiểu đoàn Đống Đa tiến công căn cứ Cát Chữ. Tiểu đoàn Thanh Lũng được tăng cường hỏa lực của Đại đội 91 (tỉnh Nam Định) tổ chức trận địa phục kích ở khu vực Cầu Gai ven đường 53.

16 giờ cùng ngày, địch cho một tiểu đoàn hành quân xuống ứng cứu cho Cát Chữ. Đại đội 27 được tăng cường một trung đội hỏa lực của Đại đội 91 Nam Định làm nhiệm vụ chặn đầu. Anh em chờ cho quân địch tiến vào cách chừng 20 mét mới nổ súng. Ngay loạt đạn đầu đã diệt vài chục tên địch. Bị đánh bất ngờ quân địch dồn lại. Các đại đội bạn và Đại đội 91 Nam Định cũng đồng loạt tiến công, khóa chặt phía sau không cho chúng chạy thoát. Trên một quãng đường gần 3 cây số xác giặc nằm ngôn ngang, tiểu đoàn địch đã bi xóa xổ; ta diệt hơn 300 tên, bắt gần 100 tên.

Chiến thắng Cầu Gai là bước trưởng thành của Trung đoàn 48 trong đánh điểm diệt viện. Với chiến thắng này, Tiểu đoàn Thanh Lũng đã được Bộ Tổng tư lệnh gửi điện khen ngợi và được tặng thưởng Huân chương Quân công hạng Ba.

Trong hơn 4 tháng hoạt động, Trung đoàn 48 chúng tôi đã phối hợp với các đơn vị trong Đại đoàn 320 đánh hơn 20 trận, diệt hơn 2.000 địch, bắt 537 tên, thu nhiều vũ khí, trang bị, mở rộng thêm nhiều căn cứ du kích, giải phóng hàng chục vạn dân.

Đầu năm 1953, tôi được điều về Đại đội 27 Tiểu đoàn Thanh Lũng; lúc này anh Tạ Bường là Đại đội trưởng, anh Mát làm Chính trị viên đại đội, anh Trìu làm Chính trị viên phó đại đội. Thấy tôi nhanh nhẹn, có trình độ văn hóa lại là đảng viên nên các anh đưa tôi lên làm cán sự chính trị đại đội. Công việc như một trợ lý chính trị, giúp chính trị viên và chính trị viên phó làm các báo cáo, thi đua, khen thưởng, thương binh tử sĩ, báo cáo sơ kết, tổng kết của đơn vị. Khi chiến đấu thì đi cùng chỉ huy đại đội.

Cuối tháng 3 năm 1953, theo chỉ thị của trên, Đại đoàn 320 mở đợt hoạt động mới. Hướng tiến công chủ yếu lần này vào khu vực nam Hà Đông và bắc Hà Nam, nằm trên phòng tuyến sông Đáy.

Ngày 5 tháng 4 năm 1953, Tiểu đoàn Thanh Lũng chúng tôi được lệnh tiến công cứ điểm Vân Chu, một vị trí nằm kề thị xã Phủ Lý, được xây dựng kiên cố bằng hệ thống lô cốt boongke với 10 lớp rào dây thép gai bảo vệ. Chúng tôi bí mật cho bộ đội vào cắt rào, còn hai hàng rào cuối cùng dùng bộc phá, phá tung hàng rào và khi được lệnh nổ súng, cả đại đội tràn qua cửa mở xông thẳng vào đồn bắt sống chỉ huy địch. Các mũi tiến công khác của tiểu đoàn cũng áp sát diệt các lô cốt ngoại vi. Sau 40 phút chiến đấu, Tiểu đoàn Thanh Lũng hoàn toàn làm chủ trận địa, tiêu diệt và bắt sống toàn bộ đại đội Com-măng-đô.

Tiêu diệt đồn Vân Chu xong, Tiểu đoàn Thanh Lũng được lệnh chuyển sang tổ chức trận địa phục kích đánh quân địch cứu viện từ Quế xuống và từ Phủ Lý sang. 3 giờ chiều, hai đại đội lính ngụy dẫn xác đến. Chúng tôi lại bình tĩnh đợi cho đội hình chúng lọt hẳn vào trận địa mới đồng loạt nổ súng. Sau hơn 30 phút chiến đấu, Tiểu đoàn Thanh Lũng đã diệt 180 tên, bắt 126 tên, trong đó có tên trung úy Lê Can chỉ huy lực lượng cứu viện, thu 8 đại liên, 16 trung liên, hơn 100 súng tiểu liên và súng trường cùng nhiều trang bị khác.

Như vậy trong một ngày, Tiểu đoàn Thanh Lũng đã đánh một trận công kiên, hai trận vận động xuất sắc làm nức lòng nhân dân trong vùng.

Đầu tháng 5 năm 1953, Bộ Tư lệnh đại đoàn giao nhiệm vụ cho Trung đoàn 48 tiêu diệt căn cứ Yến Vĩ và căn cứ Đục Khê thuộc xã Hương Sơn, huyện Mỹ Đức. Đây thuộc vùng đất Chùa Hương - một danh lam thắng cảnh nổi tiếng. Yến Vì là căn cứ kiên cố nhất trong hệ thống phòng thủ sông Đáy của địch, được xây dựng trên một địa hình cao hơn mặt đất từ 1 mét 2 đến 1 mét rưỡi. Trong căn cứ có nhiều lô cốt bằng bê tông cốt thép được cấu trúc theo kiểu mới. Trong mỗi lô cốt có các ngăn hình chữ T, dịch lợi dụng các ngăn này để cố thủ nếu bị ta tiến công. Giữa các lô cốt chúng lại bố trí hàng rào thép gai dày đặc. Địch trong từng lô cốt có thể chi viện cho nhau. Khi bị ta đánh, địch cho thể rút xuống hầm ngắm rồi gọi pháo bắn trùm lên để tiêu diệt bộ binh ta.

Nhiệm vụ đánh căn cứ Yến Vì được giao cho Tiểu đoàn Đống Đa. Tiểu đoàn Thanh Lũng có nhiệm vụ tiêu diệt căn cứ Đục Khê cách căn cứ Yến Vì khoảng 1,5 ki-lô-mét. Tiểu đoàn Tiên Yên có nhiệm vụ đánh quân cứu viện từ Bài Lâm sang. Đồng chí Lê Ngọc Hiển - Trung đoàn trưởng trực tiếp chỉ huy trận đánh.

Sau nhiều đêm trinh sát nắm địch ở cả hai cứ điểm Yên Vĩ và Đục Khê, tới ngày 15 tháng 5 năm 1953, hai tiểu đoàn Đống Đa và Thanh Lũng hành quân chiếm lĩnh trận địa xuất phát tiến công.

21 giờ đêm cùng ngày, Tiểu đoàn Đống Đa dùng bộc phá mở cửa, mở màn trận đánh. Một mũi theo đường cái vượt cầu Yến Vì đánh thẳng vào lô cốt số 1. Một mũi khác đánh chiếm lô cốt số 2 và số 3. Trận đánh kéo dài cả ngày 16 tháng 5. Bộ đội ta kiên quyết chiếm giữ những lô cốt đã chiếm được, đánh trả các đợt phản kích của địch hòng chiếm lại. Địch cho pháo binh từ Nhật Tựu, Thanh Bồ bắn trùm lên căn cứ để sát thương bộ đội ta. Nhưng các chiến sĩ Tiểu đoàn Đống Đa kiên cường trụ vững. Chiều tối ngày 16 tháng 5 ta mở đợt tiến công cuối cùng vào các vị trí còn lại của địch, diệt và bắt toàn bộ quân địch trong căn cứ Yến Vĩ.

Cùng lúc với cuộc tiến công căn cứ Yến Vĩ, Tiểu đoàn Thanh Lũng nổ súng tiêu diệt căn cứ Đục Khê. Sau hơn 30 phút chiến đấu, bộ đội ta hoàn toàn làm chủ căn cứ địch, diệt và bắt một đại đội lính Âu - Phi. Cả ngày 16, Tiểu đoàn Tiên Yên đã đánh bại cánh quân cứu viện từ Bài Lâm tiến sang hòng cứu nguy cho quân địch ở Đục Khê và Yến Vĩ.

Chiến thắng Đục Khê, Yến Vì giáng thêm một đòn mạnh vào phòng tuyến sông Đáy của quân Pháp. Sau khi căn cứ boongke kiên cố vào bậc nhất của địch ở Yến Vì bị ta tiến công và làm chủ, nhiều căn cứ địch trên phòng tuyến sông Đáy rung chuyển và sụp đổ theo.

Từ đầu năm 1953, cục diện chiến tranh ở chiến trường Đông Dương ngày càng trở nên bất lợi cho Pháp. Tuy vậy, được sự hậu thuẫn của Mỹ, thực dân Pháp vẫn âm mưu kéo dài và đẩy mạnh chiến tranh, hòng tìm ra "một lối thoát danh dự" bằng một thắng lợi quân sự.

Sau chiến thắng Tây Bắc cuối năm 1952, bộ chỉ huy quân đội Pháp phải thu hẹp phạm vi chiếm đóng vào Nà Sản và thị xã Lai Châu. Song chúng chưa từ bỏ âm mưu lấy lại các vị trí đã mất, đồng thời cố sức mở rộng cuộc càn quét ở trung du và đồng bằng, để bình định hậu phương, thực hiện âm mưu chiếm đóng lâu dài vùng Tây Bắc của ta.

Tháng 5 năm 1953, chính phủ Pháp cử tướng Na-va, nguyên tham mưu trưởng lục quân Pháp trong khối Bắc Đại Tây Dương sang làm tổng chỉ huy quân đội Pháp ở Đông Dương thay cho tướng Xa-lăng. Vừa đặt chân tới Đông Dương, Na-va đưa ra một kế hoạch mang tên ông ta: "Kế hoạch Na-va" với các nội dung cơ bản là:

Trong hai năm 1953-1954, giữ thế phòng ngự chiến lược, tránh giao chiến ở miền Bắc, thực hành tiến công chiến lược ở miền Nam, kể cả Liên khu 5. Tiếp đó, hai năm 1954-1955, tập trung lực lượng quyết chiến trên chiến trường miền Bắc, tiêu diệt chủ lực của ta, giành thắng lợi quyết định.

 

Điểm mấu chốt trong kế hoạch Na-va là tập trung xây dựng một lực lượng cơ động chiến lược mạnh. Muốn thực hiện được điều đó, một mặt phải điều quân từ Pháp sang, đồng thời tích cực bắt lính xây dựng quân ngụy với ý định tăng từ 54 lên 108 tiểu đoàn. Na-va tuyên bố: "Luôn luôn chủ động, luôn luôn tiến công".

Tháng 10 năm 1953, thực hiện kế hoạch bình định hậu phương, Na-va mở cuộc hành binh lớn mang tên "Hải âu" (Mouette) ra vùng tây nam Ninh Bình. Địch huy động bốn binh đoàn cơ động số 1, 2, 3, 7 và một trung đoàn cơ động ngụy theo đường 39 đánh chiếm Rịa làm bàn đạp rồi tiến đánh Nho Quan. Phối hợp với hướng chính, địch sử dụng binh đoàn cơ động số 4 tiến đánh khu vực Gián Khẩu -Hoàng Đan. Mặt khác để nghi binh, địch dùng hàng không mẫu hạm A-rô-măng-sơ đổ bộ 500 quân lên Ba Làng và nhảy dù xuống Khoa Trường (Thanh Hóa).

Về phía ta, qua học tập chính trị mùa hè năm 1953, cán bộ, chiến sĩ trong Đại đoàn 320 được củng cố về tư tưởng, vững tin vào sự lãnh đạo của Đảng, từ đó nêu cao quyết tâm sẵn sàng nhận và hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao. Tuy địch huy động lực lượng như vậy, ta thực hiện phương châm buộc địch đánh theo cách đánh của ta.

Trong mấy ngày đầu, địch tiến quân rất thận trọng, không gặp chủ lực của ta, chúng bắt đầu chủ quan. Đúng lúc đó, Trung đoàn 64 xuất quân tiêu diệt cụm quân địch ở điểm cao 94 và điểm cao 201 nằm trên trục đường Rịa - Kim Tân, diệt một tiểu đoàn địch. Tiếp đó, Trung đoàn 52 phục kích trên đường 39, diệt và bắt 2 đại đội địch trên đường tiến lên Nho Quan.

Ngày 24 tháng 10 năm 1953, Tiểu đoàn Đống Đa và Tiểu đoàn Thanh Lùng chúng tôi tổ chức trận địa phục kích chặn đánh cánh quân địch từ Rịa qua Phủ Đồi đánh ra Trại Ngọc, Thạch Thành tỉnh Thanh Hóa. Cuộc chiến đấu ở đây diễn ra quyết liệt. Bị quân ta chặn lại, địch huy động máy bay, phi pháo bắn phá ác liệt vào trận địa quân ta, sau đó chúng dùng 20 xe tăng, xe thiết giáp dẫn bộ bình tràn vào trận địa. Chúng tôi động viên bộ đội dùng lựu đạn, thủ pháo đánh lui các đợt tiến công của xe tăng và bộ binh địch. Nhiều chiến sĩ mưu trí, dũng cảm nhảy lên cậy nắp xe tăng thả lựu đạn, thủ pháo vào trong xe tăng địch.

Trận này, Tiểu đoàn Đống Đa và Tiểu đoàn Thanh Lũng đã diệt 5 xe tăng, 2 xe thiết giáp, 4 xe vận tải, 1 xe Jeep và 200 tên địch, bẻ gãy cánh quân vu hồi của chúng.

Tôi được biết, ngày 24 tháng 10 năm 1953, địch sử dụng một tiểu đoàn lính lê dương và một tiểu đoàn ngụy Thái đánh ra Sông Cạn, Dốc Giang. Tiểu đoàn Tiên Yên tổ chức một trận vận động phục kích do anh Kim Tuấn, Tiểu đoàn trưởng chỉ huy tiêu diệt hơn 300 tên địch, bắn rơi 1 máy bay trinh sát, 1 máy bay ném bom B.26.

Qua 23 ngày đêm liên tục chiến đấu, Trung đoàn 48 và các đơn vị trong Đại đoàn 320 đã tiêu diệt và bắt hơn 4.000 tên địch, bắn rơi 4 máy bay, phá hủy hàng chục xe quân sự, trong đó có gần chục chiếc xe tăng, xe thiết giáp, phá hủy hơn 40 khẩu pháo, đập tan cuộc hành quân ra vùng tây nam tỉnh Ninh Bình, bảo vệ đồng bằng Liên khu 3 mà Bộ Tổng tư lệnh giao cho.

Trước khi nói về diễn biến chiến cuộc Đông Xuân 1953-1954, tôi muốn dành ít trang nói về chủ trương chiến lược của ta trong Đông Xuân lịch sử này.

Cuối tháng 9 đầu tháng 10 năm 1953, Bộ Chính trị đã thông qua phương án tác chiến Đông Xuân 1953-1954 do Tổng Quân ủy đề đạt, phân tích hình thái chiến trường đồng bằng có nhiều thuận lợi đối với địch, ít thuận lợi đối với tác chiến của chủ lực ta. Mở chiến dịch ở đồng bằng chỉ có thể thu được thắng lợi hạn chế mà cũng có thể bị tiêu hao lực lượng.

Bộ Chính trị đã thông qua đề án Đông Xuân do Tổng Quân ủy đề nghị, đó là chủ trương sử dụng một bộ phận chủ lực mở chiến dịch tiến công những hướng địch sơ hở trên chiến trường rừng núi, trong đó xác định Tây Bắc là hướng chính, đồng thời tranh thủ cơ hội tiêu diệt địch trên những hướng chúng có thể đánh sâu vào vùng tự do của ta, đẩy mạnh chiến tranh du kích trên khắp các chiến trường sau lưng địch.

Thực hiện chủ trương chiến lược trong kế hoạch tác chiến Đông Xuân 1953-1954, Bộ Tư lệnh Đại đoàn 320 quyết định tập trung phần lớn lực lượng mở chiến dịch phá vỡ phòng tuyến sông Đáy của địch, mở đường chi viện cho chiến trường Tây Bắc, đưa bộ đội vào cùng địa phương đẩy mạnh chiến tranh du kích, thực hiện giam chân địch tại đồng bằng.

Trung đoàn 48 được tăng cường một đại đội sơn pháo 75 ly, có nhiệm vụ tiến công cứ điểm Hoàng Đan, bao vây uy hiếp cứ điểm Kinh Thanh và chặn quân tiếp viện của địch từ Phủ Lý về Hoàng Đan. Trung đoàn 52 có nhiệm vụ chặn đánh quân tiếp viện của địch từ thị xã Ninh Bình đến Hoàng Đan. Một lực lượng khác của Đại đoàn tổ chức trận địa phục kích bằng hỏa lực kết hợp với thủy lôi và bộ binh đánh quân tiếp viện địch trên sông Đáy từ thị xã Ninh Bình về Hoàng Đan.

Chỉ huy Trung đoàn 48 giao nhiệm vụ cho Tiểu đoàn Thanh Lũng tiêu diệt cứ điểm Hoàng Đan. Tiểu đoàn Đống Đa được tăng cường lực lượng của Tiểu đoàn pháo binh 834 của đại đoàn "tiến công cứ điểm" Kinh Thanh. Tối 20 tháng 1 năm 1954, Trung đoàn 48 và Trung đoàn 52 được hơn 300 chiếc thuyền của nhân dân địa phương chở quân và vũ khívượt sông Đáy về nơi tập kết.

Đêm 20 rạng sáng 21 tháng 1 năm 1954 - một ngày giáp Tết Nguyên đán Giáp Ngọ, cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn Thanh Lũng bí mật tiếp cận cứ điểm dịch, dùng bộc phá phá rào mở cửa rồi chia thành nhiều mũi tràn qua cửa mở đánh vào căn cứ địch. Sau những phút hoảng loạn, quân địch trong các lô cốt tập trung hỏa lực chống trả ta quyết liệt. Một số cán bộ, chiến sĩ thương vong khi vượt qua cửa mở, cuộc chiến đấu trở nên phức tạp. Địch kiên quyết cầm cự đợi trời sáng để quân tiếp viện đến. Ta thì kiên quyết tiến công giữ vững những nơi đã chiếm được.

9 giờ ngày 21 tháng 1, binh đoàn quân ngụy số 31 được phái đi tiếp viện cho Hoàng Đan. Đến 15 giờ toàn bộ 2 tiểu đoàn địch và 1 đại đội Com-măng-đô rơi vào trận địa phục kích của Trung đoàn 52 ở khu vực Phú Khê, Quý Độ, Phong Xuyên và Đông Duy bị ta tiêu diệt và bắt gần hết.

Tin quân tiếp viện bị tiêu diệt làm cho quân địch cố thủ trong cứ điểm Hoàng Đan vô cùng khiếp sợ. Chiều ngày 21 tháng 1, tên chỉ huy căn cứ phải kéo cờ trắng ra hàng. Trong trận này ta tiêu diệt 349 tên, bắt 482 tên, thu nhiều vũ khívà đồ dùng quân sự.

21 giờ 30 phút ngày 7 tháng 2 năm 1954, Tiểu đoàn Đống Đa được Tiểu đoàn pháo binh 834 của đại đoàn chi viện nổ súng tiến công cứ điểm Kinh Thanh. Sau gần 3 giờ chiến đấu ác liệt, Tiểu đoàn Đống Đa hoàn toàn làm chủ cứ điểm của địch.

Mất cứ điểm Hoàng Đan và Kinh Thanh, địch không còn khả năng lập lại những cứ điểm đã mất trên phòng tuyến sông Đáy. Để tránh bị ta tiêu diệt, chúng rút bớt các vị trí lẻ, co lại thành những cụm cứ điểm hoặc cứ điểm ở các địa bàn quan trọng. Do vậy, Bộ Tư lệnh đại đoàn quyết định điều Trung đoàn 48 lên phía bắc Phủ Lý, nam Hà Đông tiếp tục hoạt động trên phòng tuyến sông Đáy.

Sau trận diệt cứ diễm Hoàng Đan, anh Phạm Đồng Mạc - Chính trị viên tiểu đoàn gọi tôi đến giao nhiệm vụ mới:

- Qua một thời gian theo dõi thấy cậu hăng hái, dũng cảm, chỉ huy tiểu đoàn giao cho cậu làm Trung đội trưởng Trung đội 19 xung kích, cậu thấy thế nào?

Thấy Chính trị viên nói vậy, tôi phát hoảng:

- Báo cáo Chính trị viên, em chỉ huy tiểu đội thôi, hay anh để cho em làm cán sự chính trị đại đội cũng được, xuống chỉ huy trung đội xung kích em sợ mình không làm được, nếu để anh em bị thương vong thì mình có tội.

Anh Mạc ôn tồn:

- Chúng tôi cân nhắc kỹ rồi, tin là cậu có thể làm tốt. Cứ làm đi, còn có chúng tôi cơ mà.

- Vâng! Em nhận, mong các anh giúp đỡ để em hoàn thành nhiệm vụ.

- Được rồi, cứ về nắm bộ đội, tìm hiểu tâm tư của anh em, động viên anh em nhé.

Tôi chào anh Mạc ra về mà trong lòng không khỏi lo lắng về nhiệm vụ mới được giao.

Ngay sau khi chuyển hướng lên phía bắc Phủ Lý, cán bộ trung đoàn, tiểu đoàn và đại đội tổ chức chuẩn bị chiến trường trên phòng tuyến sông Đáy đoạn Phủ Lý và nam Hà Đông, đồng thời chuẩn bị phương án sẵn sàng đánh địch đến giải vây.

Ngày 15 tháng 2 năm 1954, địch dùng binh đoàn cơ động số 4 và một phân đội xe lội nước từ Phủ Lý theo đường số 1 tiến dọc núi Khe Non xuống hộ tống địch từ hai căn cứ Thanh Khê và Mai Cầu rút chạy. Tiểu đoàn Tiên Yên được lệnh tập kích đội quân hộ tống của địch tại làng Thanh Khê, diệt gọn 1 trung đội, phá hủy 12 xe lội nước của địch, sau đó truy kích quân địch rút chạy từ hai căn cứ Thanh Khê và Mai Cầu.

Đầu tháng 3 năm 1954, ở Mặt trận Điện Biên Phủ, ta đang khẩn trương hoàn thành mọi công tác chuẩn bị để sẵn sàng nổ súng mở màn chiến dịch. Để phối hợp với chiến trường Điện Biên Phủ, Bộ Tổng tư lệnh chỉ thị cho Đại đoàn 320 đưa Trung đoàn 64 vào hoạt động ở bắc tỉnh Thái Bình và nam tỉnh Hưng Yên, tạo thế uy hiếp địch trên hướng này. Trung đoàn 48 và Trung đoàn 52 đẩy mạnh hoạt động bao vây rộng rãi các cứ điểm của địch nhằm uy hiếp chúng, tranh thủ thời cơ tiêu hao, tiêu diệt sinh lực địch, tạo điều kiện đánh viện binh của chúng trên khu vực bắc Phủ Lý, nam Hà Đông.

Thực hiện chủ trương của trên, Trung đoàn 48 sử dụng Tiểu đoàn Thanh Lũng chúng tôi bao vây, uy hiếp cứ điểm địch ở Quế (Quyển Sơn) cách Phủ Lý 10 ki-lô-mét về hướng bắc, tạo điều kiện đánh quân tiếp viện.

Ngày 16 tháng 3 năm 1954, khi tiếng súng mở màn chiến dịch Điện Biên Phủ được 3 ngày, địch sử dụng một đại đội Com-măng-đô đi cứu viện cho vị trí Quế bị bao vây. Đại đội tôi có nhiệm vụ bố trí trận địa phục kích tiêu diệt quân cứu viện.

Khi những tên lính Com-măng-đô cuối cùng đã lọt vào trận địa, Đại đội trưởng ra lệnh nổ súng. Bị đánh bất ngờ, quân địch hoảng loạn, dẫm đạp lên nhau quay đầu tháo chạy. Nhưng bộ phận khóa đuôi của đại đội nổ súng quyết liệt, đánh bật chúng trở lại. Cán bộ, chiến sĩ đại đội tôi chia cắt địch ra từng toán để diệt. Nhiều tên run rẩy giơ tay xin hàng.

Sau gần 20 phút chiến đấu, đại đội tôi đã diệt và bắt gọn đại đội Com-măng-đô. Đêm hôm đó, những tên địch còn sống sót trong cứ điểm Quế bỏ căn cứ tháo chạy. Chúng tôi lập tức truy kích tiêu diệt và bắt sống toàn bộ quân địch.

Phát huy thắng lợi, Trung đoàn lệnh cho Tiểu đoàn Thanh Lũng vượt sông Đáy phối hợp với bộ đội địa phương tiêu diệt cứ điểm Kiện Khê do mấy trăm tên vệ sĩ chiếm giữ nằm trên bờ sông Đáy về phía nam Phủ Lý. Khi ta nổ súng, vì tâm lý hoang mang nên chỉ sau ít phút chống cự binh lính địch đã bỏ chạy vào nhà dân. Chúng tôi tổ chức truy tim, sau hơn 2 giờ lùng sục và gọi hàng đã bắt được 216 tên địch.

Chỉ trong vòng một tuần lễ, hai cứ điểm Quế và Kiện Khê của địch đã bị tiêu diệt; cả hai mặt nam, bắc Phủ Lý đều bị ta đánh mạnh. Thị xã Phủ Lý bị cô lập. Ba ngày sau, địch cho binh đoàn cơ động số 5 từ Liên Xương (Vụ Bản, Nam Định) hành quân lên cùng binh đoàn cơ động ngụy rải quân theo đường 21 từ Lễ Xá, Mỹ Lộc, Nam Định đến cầu Họ huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam để bảo vệ thị xã Phủ Lý.

Hạ tuần tháng 3 năm 1954, chỉ huy Trung đoàn 48 giao nhiệm vụ cho Tiểu đoàn Thanh Lũng phối hợp với du kích địa phương tiến công tiêu diệt cứ điểm Chùa Ông, đóng trên điểm cao 89 thuộc dãy núi đá ngăn cách hai tỉnh Hà Đông và Hà Nam do một đại đội Âu - Phi chiếm giữ. Đường lên cứ điểm Chùa Ông chỉ có duy nhất một con đường bậc thang.

Đêm 27 tháng 3 năm 1954, trung đội trinh sát Đại đoàn 320 phối hợp với du kích dẫn đường dùng thang dây vượt đỉnh núi chiếm lĩnh vị trí chiến đấu. Theo hiệp đồng, lực lượng ta từ bên ngoài đồng loạt nổ súng đánh vào phối hợp với lực lượng từ trên đánh xuống. Chỉ sau một giờ chiến đấu, chúng tôi hoàn toàn làm chủ cứ điểm Chùa Ông, diệt và bắt toàn bộ quân địch, thu vũ khí trang bị.

Quá trình chiến đấu, tôi bị một mảnh đạn vào cổ tay phải, tôi nói anh em băng lại giúp rồi tiếp tục chỉ huy chiến đấu cho đến khi trận đánh kết thúc. Khi lui quân về phía sau, vết thương sưng tấy lên, tôi đến bệnh xá Trung đoàn 48, nhờ y sĩ Nguyên xử lý. Anh Nguyên rạch một đường dài hơn 5 cen-ti-mét, tôi đau điếng nhưng cố chịu. Anh Nguyên loay hoay mãi mà vẫn không lấy được mảnh đạn, cuối cùng anh khâu và băng lại. Sau đó vết thương đã lành, nhưng vẫn để lại vết sẹo dài ở cổ tay phải và mảnh đạn vẫn còn cho đến tận bây giờ.

Cuối tháng 3 đầu tháng 4 năm 1954, ở Mặt trận Điện Biên Phủ, hai trung tâm đề kháng mạnh nhất của địch là Độc Lập và Him Lam do hai tiểu đoàn Âu - Phi chiếm giữ bị ta tiến công và tiêu diệt gọn. Quân ta còn đánh bại các cuộc phản kích của bộ binh và xe tăng dịch từ phân khu trung tâm ra hòng chiếm lại hai cụm cứ điểm đã mất.

Qua đợt 1 chiến dịch, quân ta đã rút được kinh nghiệm bước đầu về đánh cụm cứ điểm trong tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, thấy được khả năng của ta có thể tiêu diệt cụm cứ điểm kiên cố của địch. Đối với quân địch, trước nguy cơ Điện Biên Phủ bị ta tiêu diệt, buộc chúng phải vơ vét lực lượng từ các chiến trường khác về để tăng viện đối phó.

Thực hiện chỉ thị của Tổng Quân ủy: Tập trung mọi khả năng để tiêu diệt tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ và chỉ thị: "Đẩy mạnh hoạt động ở đồng bằng, buộc địch phải đối phó hơn nữa", Đại đoàn 320 được giao nhiệm vụ: Phối hợp chặt chẽ với địa phương, tiếp tục bao vây, uy hiếp mạnh các khu vực Thái Bình, Phủ Lý, Ninh Bình, Phát Diệm và các trục đường quốc lộ, đường sông, tích cực đánh quân tiếp viện của địch.

Trung đoàn 48 nhận lệnh bao vây uy hiếp địch ở thị xã Phủ Lý để phân tán sự đối phó của địch, tiêu hao, tiêu diệt từng bộ phận các binh đoàn cơ động của chúng.

Trung đoàn 48 giao nhiệm vụ cho Tiểu đoàn Thanh Lũng tập kích tiểu đoàn 3 binh đoàn cơ động số 5 đóng tại Cầu Gừng, cách Phủ Lý 2 ki-lô-mét về phía nam.

 

Đêm mùng 7 rạng ngày 8 tháng 4, Tiểu đoàn Thanh Lũng bí mật hành quân bao vây quân địch. Sau khi tiểu đoàn cho súng cối bắn vào đội hình quân địch, tôi ra lệnh cho trung đội xung phong. Lúc này tay phải tôi vẫn còn băng, nhưng tôi dẫn đầu trung đội thọc thẳng vào đội hình quân địch. Ở một mũi khác, anh Tha - Trung đội phó dẫn một trung đội, anh vừa hô xung phong thì liền bị đạn dịch bắn, anh hy sinh. Trận đánh kéo dài gần 40 phút, Tiểu đoàn Thanh Lũng đã tiêu diệt gần hết tiểu đoàn địch. Ta bắt hơn 180 tên, trong đó có đại úy Béc-tô và ban chỉ huy tiểu đoàn 3 binh đoàn cơ động số 5.

Khi lui quân, tôi gặp Tiểu đoàn trưởng Trương Quang Phát. Thấy tôi, anh nói:

- Đồng chí Tiến cho bộ đội lui quân nhanh lên.

Tôi trả lời:

- Đề nghị Tiểu đoàn trưởng lui trước. Tôi và anh em ở lại bảo vệ ban chỉ huy tiểu đoàn.

Trận đánh này, tôi được đề nghị tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng Ba vì có thành tích chỉ huy bộ đội chiến đấu diệt nhiều địch, bắt nhiều tù binh và có tinh thần bảo vệ cán bộ.

Tối ngày 7 tháng 5 năm 1954, tin quân ta đập tan tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, bắt sống 16 nghìn tù binh trong đó có tướng Đờ Cát và toàn bộ bộ tham mưu tập đoàn cứ điểm truyền đi rất nhanh làm nức lòng quân và dân ta; quân địch còn lại ở chiến trường Đông Dương hoang mang dao động.

Nắm chắc thời cơ, Bộ Tổng tư lệnh chỉ thị cho các đơn vị phát huy thắng lợi, tiếp tục tiến công mạnh hơn nữa để giải phóng đồng bằng Bắc Bộ. Chấp hành chỉ thị của Bộ Tổng tư lệnh, Trung đoàn 48 lệnh cho Tiểu đoàn Thanh Lũng và một bộ phận Tiểu đoàn Tiên Yên ngay trong đêm 11 tháng 5 tập kích tiêu diệt tiểu đoàn 2 binh đoàn số 4 (GM4) ở Thạch Tổ phía nam thị xã Phủ Lý 2 ki-lô-mét. Thời gian này tôi bị đi kiết, người rất mệt nhưng vẫn cố chống gậy hành quân cùng anh em.

Chúng tôi cho bộ đội triển khai đội hình chiến đấu. Súng cối bắn cấp tập vào cứ điểm Thạch Tổ vừa ngừng, tôi lệnh cho trung đội xung phong, vẫn tác phong hễ nổ súng là tôi dẫn đầu đội hình trung đội thọc thẳng đánh chiếm sở chỉ huy địch. Trước sức tiến công mạnh mẽ của quân ta, quân địch hoang mang, chúng tôi vừa đánh địch vừa kêu gọi chúng đầu hàng. Trận đánh kéo dài 30 phút, Tiểu đoàn Thanh Lùng đã diệt và bắt 385 tên địch.

Trong khi Trung đoàn 48 đánh địch ở xung quanh thị xã Phủ Lý, thì trên hướng Hải Hậu, Nam Định, Trung đoàn 52 được lệnh tiến công cụm cứ điểm Đông Biên. Mặc dù Đông Biên là cụm cứ điểm có công sự vững chắc, nhưng cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn 52 cùng với lực lượng vũ trang địa phương chiến đấu hơn 10 tiếng đồng hồ đã làm chủ hoàn toàn cụm cứ điểm Đông Biên, diệt gọn 2 tiểu đoàn quân ngụy, 4 đại đội bảo an, diệt và bắt hơn 800 tên địch, thu toàn bộ vũ khí và phương tiện chiến tranh của địch.

Với chiến thắng Đông Biên, toàn huyện Hải Hậu đã được giải phóng. Hai trận đánh Thạch Tổ và Đông Biên cũng là trận đánh lớn cuối cùng của Đại đoàn 320 trước khi Hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết.




Bình luận


© 2023 bởi Nhà Lưu Niệm. Được dùng và bảo mật bởi Wix

bottom of page