Chương 4. Tham gia chiến dịch phản công Đường 9 Nam Lào
- tuongquankhuatduyt
- 7 giờ trước
- 48 phút đọc
Trung tuần tháng 10 năm 1969, Sư đoàn 320 từ tây bắc Quảng Trị được lệnh cơ động ra đóng quân ở huyện Kỳ Anh, Hà Tĩnh. Trung đoàn 64 chúng tôi ở xã Kỳ Thượng, huyện Kỳ Anh. Vừa đến nơi đóng quân, tôi nhận được tin cha tôi mất ngày 26 tháng 6 năm 1969. Tôi buồn ghê gớm và nhớ thương cha vô cùng. Cả đời cha tôi vất vả vì các con, ông chưa được hưởng một ngày sung sướng. Tôi ân hận vì không được chăm sóc cha lúc cuối đời. Tôi báo cáo đơn vị và các anh bố trí cho tôi một xe Gat để về nhà. Tôi động viên đồng chí lái xe đi cả đêm. Từ Kỳ Anh về Hà Nội, chưa đến 400 ki-lô-mét, bây giờ đi chỉ 10 tiếng đồng hồ, mà dạo đó đường xấu do giặc Mỹ đánh phá, lại phải qua mấy chiếc phà nên đến gần hai ngày sau tôi mới có mặt ở nhà.
Nhìn thấy tôi, mẹ tôi khóc, bà nói rằng lúc hấp hối, bố chỉ hỏi:
- Thằng Tiến đâu. Tôi muốn gặp nó!
Mẹ bảo:
- Con đi chiến đấu ở trong Nam rồi ông ạ, không thể về được, ông thông cảm cho con, ông nhé!
Tôi thắp hương trên ban thờ, rồi ra mộ viếng cha.
Tôi ở nhà được mấy ngày rồi phải trở vào đơn vị, vì còn nhiều việc phải làm. Tôi chào mẹ, tạm biệt Vân và các con Việt Dũng, Thu Hồng và Hải Yến. Lúc này Việt Dũng mới 10 tuổi, còn Hải Yến mới 2 tuổi. Tôi ôm các con vào lòng mà nước mắt ứa ra. Vân đón Hải Yến trong tay tôi và bảo các con chào bố.
Buổi chia tay hôm ấy cứ ám ảnh tôi mãi. Thương cha, thương mẹ, nhớ vợ và các con thơ dại nhưng nhiệm vụ của đơn vị cũng rất khẩn trương.
Ở Hà Tĩnh một thời gian, sư đoàn được lệnh cơ động ra huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa làm nhiệm vụ huấn luyện nâng cao sức mạnh toàn diện của đơn vị và sẵn sàng chiến đấu.
Tháng 8 năm 1970, Trung đoàn 64 được lệnh hành quân vào Quảng Bình làm con đường 16A lên Bản Đông. Cũng trong dịp này, tôi được bổ nhiệm làm Trung đoàn phó Trung đoàn 64.
Ngày 10 tháng 9, theo chỉ thị của Bộ Tổng tham mưu, Sư đoàn 320 tổ chức một đoàn cán bộ đi trinh sát chuẩn bị chiến trường ở khu vực đường 9 - Nam Lào.
Đoàn cán bộ đi chuẩn bị chiến trường hơn 100 người, hầu hết là cấp trưởng tiểu đoàn trở lên do Sư đoàn trưởng Kim Tuấn chỉ huy nhanh chóng lên đường. Tôi cũng được tham gia trong đoàn cán bộ này. Qua Cự Nẫm, vượt Trường Sơn, rồi qua trạm 3, 4... 31, 32 tới đường 9. Con đường dài khoảng 300 ki-lô-mét từ Đông Hà tỉnh Quảng Trị, qua Lao Bảo, Bản Đông, Sê Pôn, Mường Phìn, Pha Lan đến Xa-van-na-khét nước bạn Lào.
Đoàn cán bộ được lệnh dừng lại trên đoạn đường Mường Phin Pha Lan. Theo dự kiến của Bộ nếu xảy ra chiến đấu với quân ngụy Sài Gòn ở khu vực đường 9 - Nam Lào thì hướng tây này, quân ngụy Lào sẽ được lệnh tác chiến phối hợp. Theo phương án của Bộ, Sư đoàn 320 sẽ đưa một trung đoàn vào hoạt động trước, phối hợp với quân và dân nước bạn bảo vệ đường vận chuyển chiến lược ở một hướng. Bộ Tư lệnh sư đoàn giao nhiệm vụ này cho Trung đoàn 48. Sau đó, chúng tôi chia thành từng bộ phận đến từng khu vực được phân công trong phương án, kế hoạch tác chiến để trinh sát địa hình.
Ở các căn cứ Na Pô, Tăng Vai, Bun Sang, Na Thông... của phòng tuyến Sê Ta Mộc, Sê Săng Soi nằm dọc hai bên đường số 9 bao quanh hai quận lỵ Mường Phìn và Pha Lan, qua nghiên cứu chúng tôi nhận thấy toàn bộ tuyến phòng thủ địch đều chốt giữ những địa hình có giá trị về chiến thuật, có chính diện rộng, tung thâm sâu. Thủ đoạn cơ bản của địch là chốt cứng bên trong, cơ động bên ngoài, luôn sử dụng những biện pháp ngăn ngừa từ xa bằng mạng lưới thám báo, biệt kích. Khi hành quân lấn chiếm, địch bí mật luồn lách rồi bất ngờ tiếp cận mục tiêu, chúng sử dụng lực lượng tập trung, phân tán linh hoạt, rất ít khi quyết chiến với ta.
Với đối tượng tác chiến mới này, việc tổ chức đánh lớn, diệt gọn là rất khó. Đối với bộ đội ta, tác chiến ở chiến trường này sẽ gặp nhiều khó khăn, suối sâu, rừng rậm, xa hậu phương, ăn uống thiếu thốn, bệnh sốt rét hoành hành... Đoàn cán bộ trinh sát với số lượng người ít như vậy mà cơ động, tiếp cận khó khăn, chật vật và đã có nhiều người bị sốt rét tiến công. Nhưng dù cực khổ khó khăn, quyết tâm vẫn được giữ vững.
Chỉ sau một thời gian ngắn, phương án tác chiến đã hình thành. Tháng 11, đoàn cán bộ trinh sát địa hình Sư đoàn 320 trở ra miền Bắc. Cuối tháng 11 năm 1970, tôi được thăng quân hàm Thiếu tá và bổ nhiệm Trung đoàn trưởng Trung đoàn 64 Sư đoàn 320 cùng anh Đặng Văn Trượng - Thiếu tá làm Chính ủy trung đoàn. Chúng tôi bắt tay vào công tác xây dựng củng cố đơn vị, chuẩn bị cho nhiệm vụ chiến đấu sắp tới.
Chiến dịch Đường 9 - Nam Lào diễn ra trong bối cảnh chiến lược, hình thái chiến trường có liên quan trực tiếp đến quá trình chuẩn bị và hình thành bước phát triển của ta trong năm 1971.
Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt Tết Mậu Thân năm 1968 của quân và dân ta đã giáng đòn quyết định làm thất bại chiến lược "chiến tranh cục bộ" của Mỹ, tạo một bước ngoặt lớn cho cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Chính quyền Mỹ buộc phải xuống thang chiến tranh, chủ trương "phi Mỹ hóa" cuộc chiến tranh và ngồi vào bàn đàm phán với ta tại Hội nghị Pa-ri.
Sau đợt hoạt động hè 1969, để giữ thế tiến công và do việc tiếp tế bổ sung ngày càng khó khăn, lại bị quân địch phản kích quyết liệt, một bộ phận chủ lực ta phải lui về căn cứ để củng cố. Lực lượng vũ trang địa phương cũng bị tiêu hao, sức chiến đấu giảm sút. Mùa mưa, quân địch đánh ra kết hợp với đẩy mạnh chương trình "bình định" vùng nông thôn và đánh phá căn cứ ta ở miền núi, đánh phá hành lang vận chuyển, gây thêm nhiều khó khăn mới cho ta. Vùng giải phóng bị thu hẹp, tiếp tế hậu cần cho bộ đội gặp nhiều trở ngại. Tuy ta có mở một số đợt tiến công, gây cho địch một số thiệt hại, nhưng chưa tạo được chuyển biến đáng kể.
Tình thế chính trị, quân sự trên toàn Đông Dương cho đến hết năm 1970 đặt ra yêu cầu đối với quân và dân ta khi bước vào Xuân 1971 là phải tăng cường liên minh chiến đấu với quân dân Lào và Cam-pu-chia anh em, chuyển mạnh sang tiến công và phản công để giáng một đòn có ý nghĩa chiến lược vào chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh" và "Học thuyết Ních-xơn" ở Đông Dương, tạo thế và lực mới để đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân ba nước Đông Dương tiến lên giành thắng lợi to lớn hơn nữa.
Về phía địch, theo bước đi chiến lược của Mỹ trong chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh" trong năm 1971, chúng tiến hành các cuộc tiến công lớn đánh ra vòng ngoài, phá hành lang vận chuyển chiến lược và hậu phương chiến lược trực tiếp của ta ở chiến trường Lào và Cam-pu-chia để thực hiện "chiến tranh bóp nghẹt".
Đó là bối cảnh chiến lược, hình thái chiến trường, bước đi chiến lược của hai bên, có quan hệ trực tiếp tới quá trình chuẩn bị và hình thành các chiến dịch cùng với bước phát triển mới của ta trong năm 1971. Ta còn dự đoán chính xác phương hướng tiến công của địch trong mùa khô 1970 - 1971 sẽ là hành lang vận chuyển chiến lược của ta ở Trung - Hạ Lào và Đông Bắc Cam-pu-chia nhằm cô lập chiến trường miền Nam.
Đầu năm 1971, kế hoạch chiến lược mở các cuộc tiến công ra vòng ngoài đã được Nhà trắng và Lầu năm góc phê chuẩn. Địch huy động 88 tiểu đoàn bộ binh, 15 thiết đoàn để mở ba cuộc tiến công quy mô lớn, tiến hành đồng thời và liên tiếp trên ba hướng đánh vào tuyến vận tải chiến lược của ta.
Hướng thứ nhất, cuộc hành quân mang tên "Lam Sơn 719", đánh vào khu vực đường 9 - Nam Lào. Thời gian đầu sử dụng 42 nghìn quân, sau đó lực lượng huy động cao nhất lên tới 55.000 quân gồm 15 tiểu đoàn bộ binh và 21 tiểu đoàn pháo binh, 1.000 máy bay.
Hướng thứ hai, cuộc hành quân mang tên "Toàn thắng 1-71NB", với lực lượng gồm 34 tiểu đoàn bộ binh, 5 trung đoàn thiết giáp, 8 trung đoàn pháo binh tổ chức thành 9 chiến đoàn (khoảng 23.000 quân) đánh vào Tây Ninh, Lộc Ninh rồi đánh lên vùng Công Pông Chàm, Cra-chi-ê (Đông Bắc Cam-pu-chia).
Hướng thứ ba, cuộc tiến công từ bắc Kon Tum đánh ra ngã ba biên giới vùng Tà Xẻng, Pa Kha, Sê Sụ thuộc A Tô Pơ (Nam Lào) với lực lượng khoảng 1 sư đoàn.
Trong ba cuộc tiến công nói trên, cuộc hành quân "Lam Sơn 719", đánh ra đường 9 - Nam Lào là lớn nhất. Mục đích của cuộc hành quân "Lam Sơn 719" là đánh phá, cắt đứt tuyến vận tải chiến lược của ta từ gốc, tập trung hủy diệt cơ sở hậu cần chiến lược, làm cho quân chủ lực ta ở miền Nam không thể đánh lớn trong mùa khô 1971 - 1972 và cả năm 1972, buộc ta phải quay về hoạt động chiến tranh du kích, để quân Mỹ rút dần theo kế hoạch, nâng cao khả năng tác chiến của quân đội Sài Gòn, thực nghiệm vai trò thay thế quân Mỹ theo chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh". Mỹ muốn rèn luyện quân ngụy Sài Gòn thành lực lượng nòng cốt cho các quân đội tay sai ở Đông Dương.
Lực lượng tham gia cuộc hành quân "Lam Sơn 719" gồm tất cả các lực lượng dự bị chiến lược cùng lực lượng cơ động của vùng 1 chiến thuật ngụy. Các lực lượng tiếp vận trung ương của quân ngụy được sự chi viện hỏa lực của không quân Mỹ, một bộ phận lực lượng bộ binh và thiết giáp Mỹ phối hợp tác chiến yểm hộ phía sau. Quân ngụy Lào phối hợp hoạt động ở phía tây đường 9 với 5 tiểu đoàn, từ đó tiến đánh ra khu vực Mường Pha Lan. Có thể nói đây là một cuộc hành quân lớn nhất và điển hình theo công thức "Việt Nam hóa" cuộc chiến tranh của Mỹ.
Về phía ta, từ mùa Hè năm 1970, Bộ Tổng tham mưu bắt đầu vạch kế hoạch tác chiến, điều động lực lượng chỉ đạo việc chuẩn bị chiến trường tác chiến ở khu vực đường 9 - Nam Lào. Tháng 10 năm 1970, ta thành lập Binh đoàn 70, binh đoàn chiến lược đầu tiên của quân đội ta gồm 3 sư đoàn bộ binh: Sư đoàn 304, Sư đoàn 308, Sư đoàn 320 và một số trung đoàn, tiểu đoàn binh chủng. Ở khu vực đường 9 có lực lượng của Mặt trận B5, Quân khu Trị Thiên và Đoàn 559. Ta gấp rút điều chỉnh lực lượng, tổ chức thế trận, thiết bị chiến trường, các đơn vị trên địa bàn sẵn sàng phối hợp chiến đấu với bộ đội chủ lực cơ động.
Khu vực đường 9 - Nam Lào là địa bàn rừng núi, thuộc hai tỉnh Quảng Trị và Xa-van-na-khét. Đường số 9 nằm vắt ngang vĩ tuyến 17 dài khoảng 300 ki-lô-mét nối Đông Hà với Xa-van-na-khét, đi qua Lao Bảo, Bản Đông, Sê Pôn, Mường Phìn, Pha Lan - những giao điểm của các con đường 16, 18, 23, 128 và các con sông Sê Băng Hiêng, Sê Pôn hết sức trọng yếu của tuyến giao liên đường bộ, đường thủy. Dọc đường số 9 từ biên giới Việt - Lào ra biển là khu vực phòng thủ kiên cố gồm nhiều cụm cứ điểm vững chắc của Mỹ - ngụy. Phía tây ta có đường vận tải và hệ thống bảo đảm hậu cần chiến lược thuộc Đoàn 559. Đoàn 559 không chỉ là lực lượng vận tải mà là một đơn vị binh chủng hợp thành, có cả bộ binh, công binh, phòng không... đặc biệt có hệ thống lực lượng kho trạm được bố trí trên nhiều điểm, lại có nhiều súng phòng không đang niêm cất hoặc vận chuyển vào phía Nam. Ta đã kịp thời tổ chức lực lượng này thành lực lượng phòng không trang bị nhiều súng 12,7 ly để đánh địch, nhất là bắn máy bay lên thẳng.
Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương quyết định mở chiến dịch phản công tiêu diệt lớn quân địch ở khu vực đường 9 -Nam Lào. Lực lượng tham gia chiến dịch lấy Binh đoàn 70 làm nòng cốt. Bộ Tư lệnh và Đảng ủy Mặt trận Đường 9 Nam Lào được thành lập. Tư lệnh chiến dịch là Thiếu tướng Lê Trọng Tấn - Tổng Tham mưu phó. Chính ủy là Thiếu tướng Lê Quang Đạo - Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị. Thượng tướng Văn Tiến Dũng - Tổng Tham mưu trưởng là đại diện Thường vụ Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng bên cạnh Bộ Tư lệnh chiến dịch. Đây là cơ quan có đủ khả năng, quyền hạn chỉ huy tất cả các lực lượng tham gia chiến dịch và tổ chức hiệp đồng với các chiến trường có liên quan như Quân khu Trị Thiên, Mặt trận Đường 9 (B5), Đoàn 559 và Liên quân Việt - Lào ở Nam Lào.
Ngày 30 tháng 1 năm 1971, một sư đoàn Mỹ mở màn cuộc hành quân bằng trận càn dọc đường 9 phía nam khu phi quân sự, chiếm lại khu vực Khe Sanh để làm bàn đạp cho cuộc tiến công sang Nam Lào của quân ngụy và làm nghi binh cho quân ngụy cơ động triển khai lực lượng. Từ ngày 30 tháng 1 đến ngày 7 tháng 2 năm 1971, bằng đường không và đường bộ, quân ngụy đã chuyển 22 tiểu đoàn bộ binh và pháo ra khu vực Đông Hà - Ái Tử - Khe Sanh. Chúng cho lữ đoàn 147 lính thủy đánh bộ tập vượt sông phía tây cầu Đông Hà và đưa lữ đoàn 258 lính thủy đánh bộ từ La Vang ra cửa Thuận An xuống tàu thủy đi lên hướng bắc, làm như đang cùng quân Mỹ chuẩn bị tiến công ra bắc khu phi quân sự. Một số tàu của hạm đội 7 Mỹ từ biển Đông tiến vào uy hiếp vùng biển nam Quảng Bình.
Dự kiến trước âm mưu và việc triển khai lực lượng của địch, ta đã sẵn sàng ứng phó với cả hai tình huống: địch hành quân ra đường 9 - Nam Lào và cũng có thể tiến công ra Nam Khu 4. Do đó, nhiều đơn vị chủ lực của ta bố trí ngay sau địa bàn Nam Khu 4 để chủ động đối phó với cả hai tình huống. Về sau, ta phát hiện ngày càng rõ, Nam Khu 4 chỉ là hướng địch nghi binh, nên kịp thời chuyển trọng tâm chuẩn bị vào hướng đường 9 - Nam Lào.
Ngày 7 tháng 2 năm 1971, địch triển khai lực lượng chiếm lĩnh xong khu vực tập kết tiến công hướng đường 9-Nam Lào. Phía trước là đội hình các đơn vị quân ngụy, phía sau từ Hướng Hóa về thị xã Quảng Trị là quân Mỹ và lực lượng dự bị chiến dịch của quân ngụy. Phía tây đường 9, quân ngụy Lào nống ra Mường Pha Lan và Pha Đô Tuy để phối hợp với cuộc hành quân. Địch tăng cường hoạt động biệt kích thám báo, trinh sát, ném bom bắn phá các trọng điểm trên trục đường vận chuyển chiến lược của ta...
Về kế hoạch hành quân, chúng chia tuyến đường số 9 - Nam Lào thành ba khu vực: Khu A: La Tương - Cha Ky - cao điểm 500; Khu B: Khu trung tâm, trục chính là đường số 9, mở rộng sang hai bên bắc và nam mỗi chiều trên dưới 10 ki-lô-mét; Khu C: gồm các điểm cao ven đường số 9: 660, 462, Phu Ốc Tom, Khe Tan.
Các lực lượng tham chiến của quân ngụy Sài Gòn gồm: sư đoàn dù, sư đoàn lính thủy đánh bộ, sư đoàn 1, liên đoàn 1 biệt động quân, các lực lượng thiết giáp (460 xe tăng, xe thiết giáp), pháo binh (280 khẩu pháo các loại) của lực lượng trù bị chiến lược quốc gia và vùng chiến thuật. Lực lượng yểm trợ của Mỹ có sư đoàn 101, hai lữ đoàn của sư đoàn A-mê-ri-cơn, không quân có 600 máy bay trong đó có 300 máy bay lên thẳng. Liên đoàn 1 biệt động quân và lữ đoàn dù 3 đảm nhiệm khu vực A. Bộ phận sư đoàn dù (thiếu) và thiết giáp phụ trách trung tâm cuộc hành quân đường số 9. Sư đoàn 1 bộ binh và các lực lượng phối thuộc phụ trách khu C.
Chúng quy định ngày tiến quân: N+9 (tức là ngày 8 tháng 2 năm 1971). Ngày tiến công đánh chiếm Bản Đông: N+10 (tức là ngày 9 tháng 2 năm 1971), ngày đánh chiếm Sê Pôn: N+12 (tức là ngày 11 tháng 2 năm 1971).
Sáng sớm ngày 8 tháng 2 năm 1971, lữ dù 3 ngụy được lệnh xuất phát. Trực tiếp lữ đoàn trưởng Nguyễn Văn Thọ thám sát lại tình hình khu vực chuẩn bị tiến công lần cuối bằng trực thăng HU.1D.
Sau khi quan sát kỹ lần nữa, chúng cho rằng: Muốn đứng vững ở điểm cao 543, phải chiếm bằng được ngọn đồi Không Tên (535) ở tây bắc, cách 4 ki-lô-mét. Đây là bức bình phong án ngữ đường tiến quân của Việt cộng vào căn cứ. Chiếc trực thăng HU.1D hối hả bay trở lại Khe Sanh.
Địch mở cuộc oanh tạc dữ dội dọn bãi cho tiểu đoàn 2 lữ dù 3 đổ quân xuống điểm cao 655. Tất cả những trận địa pháo Mỹ bố trí sẵn ở suốt dọc biên giới Việt - Lào trên một chính diện hơn 30 ki-lô-mét cùng gầm lên. Chớp lửa đỏ rực một vùng rộng trên biên giới Việt - Lào.
Thọ ra lệnh cho tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 2 lữ dù 3 đổ quân xuống điểm cao 655.
Bốn mươi chiếc HU.1D và hai trực thăng HUC (trực thăng cỡ lớn cẩu pháo) đổ gọn xuống căn cứ 30 mà không có một phản ứng nhỏ từ mặt đất.
Đến lượt tiểu đoàn 3, lữ đoàn bộ lữ đoàn 3 và pháo đội 105 lên máy bay.
Tại căn cứ 30, hai pháo đội trực thuộc tiểu đoàn 2 sau 2 giờ đặt chân xuống đã bắt đầu bắn phá khu vực căn cứ 31 (điểm cao 543). Rồi máy bay phản lực, trực thăng vũ trang thi nhau bắn phá điểm cao 543. Cả ngọn đồi bị khói trùm kín.
Nhưng tiểu đoàn 3 không may mắn như tiểu đoàn 2. Khi đoàn trực thăng ầm ầm bay tới gần Bản Đông thì bỗng nhiên những dòng đạn lửa từ dưới đất bay vọt lên chi chít. Hai chiếc trực thăng bốc cháy như hai bó đuốc vùn vụt lao xuống mặt đất. Trong khoảnh khắc, bầy trực thăng bị đánh tán loạn. Mấy phút sau, chúng mới tập trung lại được, vòng xuống phía nam đường 9 rồi tiếp tục vượt lên điểm cao 543.
Thọ ra lệnh cho tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 3: "Cho đổ nhanh xuống bằng bất cứ giá nào".
Trong lúc này lực lượng chủ yếu của ta ở cánh bắc có Sư đoàn 308, Trung đoàn 24 (Sư đoàn 304) và Trung đoàn 64 (Sư đoàn 320) được pháo binh và xe tăng chiến dịch chi viện, mở cuộc phản công địch trên một địa bàn kéo dài từ Tà Púc, Pha A Rinh qua làng Sen, điểm cao 500 đến căn cứ 31 dài khoảng 20 ki-lô-mét. Sư đoàn 308 tiến công điểm cao 500 -một tiền đồn quan trọng bậc nhất của địch ở cánh bắc do tiểu đoàn 39 biệt động quân chiếm giữ, tạo điều kiện thuận lợi để ta phá tung cánh cung phía bắc.
Sau khi phân tích căn cứ 30 và căn cứ 31, căn cứ nào là trọng yếu của địch ở phía bắc đường 9, Bộ Tư lệnh chiến dịch quyết định: căn cứ 31 (nơi đặt sở chỉ huy lữ đoàn 3 do tiểu đoàn 3 và tiểu đoàn pháo binh hỗn hợp chiếm giữ). Đây cũng là lực lượng thiện chiến bậc nhất của quân ngụy Sài Gòn. Chiếm giữ điểm cao này, quân địch sẽ kiểm soát được hoàn toàn đường 16A, ngăn chặn các lực lượng ta phát triển xuống Bản Đông. Nhiệm vụ tiêu diệt căn cứ 31 được giao cho Trung đoàn 64.
Ngay sau khi đặt chân xuống căn cứ 31, đại tá Nguyễn Văn Thọ đã nhận thấy ngay vị trí chiến thuật của điểm cao 535. Nếu quân ta muốn tiến công vào căn cứ 31 nhất thiết phải vượt qua đó.
Tôi và anh Đinh Thế Mỹ - chủ nhiệm chính trị trung đoàn đến thẳng ban chỉ huy Tiểu đoàn 9. Suốt dọc đường đi, máy bay trực thăng vũ trang, máy bay phản lực ném bom phá, pháo các nơi cũng bắn về liên hồi. Chúng tôi vẫn đi trong tọa độ lửa ấy. Rất may không ai việc gì. Đến Sở chỉ huy tiểu đoàn tôi gặp anh Doanh - Tiểu đoàn phó, anh Phương - Chính trị viên, tôi nói:
- Các anh nói qua tình hình xem nào.
- Báo cáo trung đoàn trưởng, ngày 10 tháng 2 tiểu đoàn đã diệt gọn đại đội 33. Nhưng chúng em bị mất một khẩu cối 82, nhất định mai chúng em sẽ lấy lại được.
Tôi nói với Phạm Công Doanh:
- Bây giờ cậu dẫn tôi đi kiểm tra đội hình các đại đội. Yêu cầu đi gọn nhẹ, ba trinh sát, một trợ lý tác chiến, cậu và tôi.
Kiểm tra thế trận bố trí của Tiểu đoàn 9 xong tôi nói với Doanh:
- Động viên bộ đội nhanh chóng ổn định về mọi mặt. Tăng thêm lực lượng bộ binh và hỏa lực chốt giữ điểm cao Không Tên, sẵn sàng đánh dịch ở điểm cao 543 nống ra. Số còn lại làm công tác vận chuyển đạn, gạo bổ sung bảo đảm chiến đấu lâu dài.
Trong đêm 12 rạng sáng ngày 13 tháng 2 tôi thấy những hiện tượng khác thường và mọi dự kiến về khả năng hoạt động của địch ở điểm cao 543 là không sai lệch. Rõ ràng lữ dù 3 muốn đứng vững ở căn cứ - điểm cao 543, chúng không thể bỏ vị trí chiến thuật sống còn 535 (điểm cao Không Tên). Về ta cũng vậy, muốn tiến công điểm cao 543 thì phải giữ bằng được điểm cao 535. Tôi liền lệnh cho trinh sát tạm dừng tại chỗ, tập trung theo dõi diễn biến tình hình địch và nói anh Phương, anh Doanh cho Tiểu đoàn 9 sẵn sàng chiến đấu.
8 giờ sáng, địch cho máy bay đến ném bom phát quang, máy bay trực thăng vũ trang sà thấp bắn đạn 20 ly, pháo các nơi bắn về khu điểm cao Không Tên dữ dội. Sau hơn một giờ ném bom bắn phá, địch tạm ngừng. Khoảng 10 giờ 30 phút, có tiếng ì ẩm từ phía đường 9 vọng lại. Mấy chấm đen xuất hiện ở đường viền núi xa, rồi to dần. Đó là một bầy trực thăng. Doanh trèo lên cây quan sát, báo cáo:
- Báo cáo trung đoàn trưởng, có dịch đổ quân xuống khu điểm cao Không Tên.
- Nó xuống! Đang xuống ạ! Đề nghị anh cho đánh.
Tôi ra lệnh:
- Các đơn vị lập tức xuất kích. Cần chớp thời cơ nó vừa xuống đất chưa làm kịp công sự ta tổ chức tiến công ngay. Nhớ vừa đánh vừa nắm địch, nắm địa hình.
Giao nhiệm vụ cho Doanh xong, tôi nói anh Kỳ, trợ lý pháo binh trung đoàn cho trận địa cối 82mm, 4 khẩu 12,7 nhằm vào trực thăng và các điểm đổ quân của địch nhả đạn chi viện cho Tiểu đoàn 9.
Từ ba phía các cảnh quân của Tiểu đoàn 9 bí mật xuất kích. Không gian gần như vỡ ra trước những tiếng gầm thét của đủ loại máy bay và tiếng pháo nổ.
Trên hướng tây bắc, hướng chủ yếu do Đại đội 9 đảm nhiệm, Trung đội 2 do Phùng Quang Thanh chỉ huy bắt đầu vượt qua vạt cây lúp xúp. Thanh quan sát những chiếc máy bay cuối cùng đổ chừng một đại đội địch xuống mỏm một và mỏm hai.
Thanh nói với anh em trong trung đội: Phải chiếm ngay mỏm một vì mỏm này nằm án ngữ đường tiến công sang mỏm hai. Phải đánh ngay lúc chúng đứng chân chưa vững.
Sau này tôi được anh em kể lại: Khi Trung đội 2 tiến được 300 mét, một quả pháo địch rơi trúng đội hình, hất Tiểu đội trưởng Đức ngã vật xuống. Phùng Quang Thanh cũng bị một mảnh pháo cắm vào khuỷu tay. Nhưng anh kịp đứng dậy, cố để không ai biết mình bị thương. Thanh cho người cõng Đức về phía sau rồi động viên bộ đội tiến nhanh hơn nữa. Cánh tay của Thanh cứ nặng trịch tưởng như không còn làm chủ được nữa. Thanh vẫn bước đi, nhưng mắt anh bắt đầu hoa lên, lảo đảo. Chiến sĩ Bôn chạy đến thấy máu ở khuỷu tay Thanh tuôn ra, định gọi. Nhưng Thanh kịp bụm miệng Bôn lại rồi ra lệnh:
- Không được nói tôi bị thương. Tôi không thể rời trận địa lúc này được.
Thanh bảo y tá Hướng cố định chặt vết thương cho mình rồi quay sang bảo Tuấn:
- Cậu quay lại hầm Tiểu đội 5 lấy tất cả lựu đạn ra đây cho mình. - Rồi Thanh giắt lựu đạn quanh người.
Bộ phận đi đầu còn cách dịch 100 mét. Thanh vượt lên gọi mấy chiến sĩ hỏa lực bán theo mình. Cối của trung đoàn và tiểu đoàn đã bắn trúng đội hình địch. Cả mỏm một mù mịt khói đạn. Thanh dẫn tổ hỏa lực tiếp tục tiến công, đánh hất quân địch khi chúng đang hoang mang. Bỗng bộ phận đi trước bị chững lại vì lưới lửa dày đặc của đại liên, trung liên địch ở mép đồi bắn xuống. Phùng Quang Thanh nhanh chóng dẫn tổ hỏa lực vòng sang bên trái, chỉ mục tiêu cho xạ thủ B.40 và trung liên bắn tiêu diệt khẩu đại liên địch, rồi hô bộ đội xung phong.
Cả Trung đội 2 bật dậy cùng hô: Xung phong! Địch hoảng hốt tháo chạy. Một tên lủi vào bụi cây, Thanh phát hiện gọi ra, nhưng tên này ngoan cố vẫn nằm lì. Chiến sĩ Tuấn chạy đến giơ súng định bắn, Thanh vội gạt đi:
- Không được! Nó là tài liệu sống! Nó rất cần cho trận đánh của chúng ta.
Theo lời khai của tên địch sau khi bị bắt thì ở mỏm hai còn khoảng 60 tên, tiểu đoàn 6 dù sẽ đổ quân xuống khu vực này (đổi Không Tên). Thanh báo cáo tình hình địch vừa nắm được cho đại đội biết rồi tiếp tục dẫn trung đội phát triển sang mỏm hai.
Máy bay địch ném bom vào sát sở chỉ huy của tôi và trận địa pháo của trung đoàn. Đại đội trưởng Thuật ở đại đội hỏa lực báo cáo:
- Hai khẩu 12,7 bị bom vùi lấp.
Tôi nói:
- Động viên anh em khắc phục và tiếp tục nổ súng đánh dịch.
Trận đánh diễn ra được 30 phút, anh em bắt được hơn chục tù binh, trong đó có một trung úy công binh, mang theo cả cưa. Anh em hỏi, nó bảo làm hầm cho chỉ huy.
Trận địa cối của trung đoàn và Tiểu đoàn 9 thi nhau nã đạn xuống mỏm hai. Trung đội 2 của Thanh đã đột thủng cụm quân địch chốt ở phía bắc mỏm hai rồi đánh lên. Mấy tên địch ngoan cố vừa chạy vừa bắn. Ở mỏm ba, Đại đội 11 chia làm hai mũi đánh tràn lên. Trận đánh ngay từ phút đầu đã diễn ra khá căng thẳng. Một trung đội địch đã kịp bố trí thế trận, được lệnh "tử thủ" chờ tăng viện nên chống trả quyết liệt.
Chính trị viên Triện hội ý với Đại đội phó Bảy:
- Tình hình ở hướng Trung đội 2 gặp khó khăn, cần phải củng cố kịp thời. Tôi sẽ xuống đó, anh ở đây đốc Trung đội 1 đánh nhanh lên. Khi Trung đội 1 đứng vững thì Trung đội 2 sẽ thuận lợi hơn.
Sự có mặt của Chính trị viên Triện đã kịp thời củng cố quyết tâm cho chiến sĩ Trung đội 2. Sau khi xem xét tình hình, Triện lệnh cho Trung đội trưởng Trung đội 2 tập trung diệt ngay ổ đại liên phía trước mặt. Khi ổ đại liên bị diệt, Trung đội 2 đỡ gặp khó khăn hơn. Nhưng trận đánh vẫn giằng co quyết liệt, địch ở mỏm bốn tiếp tục được ném sang tăng cường. Trung đội 1 đột phá tiếp nhưng không thủng. Chính trị viên Triện lại quay sang Trung đội 1. Vừa tới nơi, anh phát hiện địch đang điều chỉnh đội hình, định chớp thời cơ tiến công địch luôn, thì ngay lúc đó, một tên địch đã bắn một loạt tiểu liên AR15. Một viên đạn găm trúng ngực anh. Liên lạc Nguyễn Huy Hợp uất quá, xách súng đứng thẳng dậy dùng AK bắn như xối đạn vào tốp địch vừa bắn Chính trị viên Triện. Khi thấy cả lũ đã đền tội, Hợp vừa khóc vừa cõng Chính trị viên của mình về. Lúc ấy là 11 giờ 30 phút ngày 13 tháng 2 năm 1971.
Từ vị trí chỉ huy Tiểu đoàn 9. Tiểu đoàn trưởng Phạm Công Doanh điện báo cáo với tôi:
- Báo cáo Trung đoàn trưởng, Đại đội 9 đã làm chủ mỏm một và mỏm hai, hiện đang chốt ở mỏm hai. Đại đội 11 chiếm được một nửa mỏm ba về phía bắc, đã có thương vong đang tổ chức đánh tiếp. Đại đội 10 hiện giờ mất liên lạc. Cách đây 10 phút, Đại đội 10 báo cáo chiếm được mỏm bốn thì bị địch chặn lại. Hướng ấy súng vẫn đang nổ rộ. Tôi đã cho người xuống hướng Đại đội 10 kiểm tra.
Tôi nói dứt khoát:
- Được rồi! Thế này nhé. Cho Đại đội 11 và Đại đội 9 củng cố ngay vị trí đã chiếm được, giữ vững trận địa. Riêng Đại đội 9 củng cố vị trí đứng chân ở mỏm một và mỏm hai, sẵn sàng đánh chi viện cho hai đại đội kia. Vừa rồi Đại đội 9 đánh tốt, thông báo ngay cho các đơn vị trong tiểu đoàn.
- Ý của Trung đoàn trưởng trùng với dự kiến của tôi. Đề nghị điều chỉnh hỏa lực chi viện trọng điểm cho Đại đội 11 và Đại đội 10.
- Được rồi, tôi đang cho vận tải tiếp đạn cối, ĐKZ và điều chỉnh hỏa lực chi viện cho anh em, cậu theo dõi chặt chẽ tiến triển của các mũi, báo cáo kết quả cho tôi kịp thời.
Lúc này, ở mỏm bốn, trận đánh diễn ra chậm hơn so với ba mỏm kia, nhưng cũng không kém phần quyết liệt.
Đại đội 10 cố gắng lắm mới chiếm được nửa đồi. Ta và địch ra sức giành nhau những vị trí có lợi. Trước tình hình ấy, Chính trị viên Tài trao đổi với Đại đội phó:
- Cứ cái kiểu cài răng lược này thì gay quá vì không thể tập trung sức mạnh đột phá vào một điểm để tạo thế được. Phải tổ chức lại đội hình, mỗi trung đội thành hai tuyến. Tuyến trước, làm trụ đánh quyết liệt, tuyến sau nhanh chóng củng cố công sự. Khi đứng chân vững thì tổ chức đột phá tiếp.
Trao đổi xong với Đại đội phó, Tài cầm máy báo cáo Tiểu đoàn trưởng Doanh. Ý định của đại đội được tiểu đoàn nhất trí.
Tài đang tổ chức cho Trung đội 2 thực hiện thì một chiến sĩ Trung đội 1 ở cánh trái đến báo cáo chiến sĩ cứu thương trung đội hy sinh, số thương binh còn lại chưa được băng bó cứu chữa. Tài giao nhiệm vụ băng bó cứu chữa cho y tá Quýnh. Thấy tình hình thương binh chưa được cứu chữa, Quýnh sốt ruột giục người chiến sĩ dẫn đường đi ngay.
Đúng 15 giờ Tiểu đoàn trưởng Doanh báo cáo:
- Đề nghị Trung đoàn trưởng cho lệnh tiến công đợt hai.
Tôi nói:
- Cậu cho bộ đội chuẩn bị sẵn sàng, tôi sẽ cho cối, ĐKZ, 12,7 bắn cấp tập lên mỏm bốn. Dừng pháo là cho bộ đội xung phong ngay.
Khi đạn súng cối, ĐKZ 75 và 12,7 trùm kín sườn tây mỏm bốn, rồi sườn nam mỏm ba vừa ngừng thì Đại đội 10 xông lên đánh hất toàn bộ quân địch xuống khe suối tiêu diệt. Một số tên hoảng quá chạy ngược lên mỏm ba.
Ở bắc mỏm ba, Đại đội 11 do Đại đội phó Bảy chỉ huy, được hỏa lực chi viện, chớp thời cơ đồng loạt bật dậy nổ súng quyết liệt đánh hất địch trở lại. Địch hết đường chạy.
Đến sẩm tối ngày 13 tháng 2 năm 1971, tiểu đoàn 6 dù hoàn toàn bị tiêu diệt. Thế là qua một ngày chiến đấu, Tiểu đoàn 9 Trung đoàn 64 đã diệt gọn tiểu đoàn 6 dù.
Lúc này, tôi không báo cáo được Bộ Tư lệnh chiến dịch vì không có đường dây liên lạc. Rất may Kho Q3 do anh Thành Công làm Chủ nhiệm khọ lại có sẵn đạn, gạo, cả dây thông tin. tôi nhờ đường dây Kho Q3 liên lạc với Bộ Tư lệnh chiến dịch. Nghe tôi báo cáo Trung đoàn 64 đã diệt gọn tiểu đoàn 6 dù, anh Phạm Hồng Sơn - Tham mưu trưởng chiến dịch hỏi lại:
- Diệt tiểu đoàn 6 nào?
- Trung đoàn 64 diệt gọn tiểu đoàn 6 lính dù quân ngụy đổ quân xuống điểm cao Không Tên vùng Ngã ba La Tương hồi 10 giờ 30 phút ngày 13 tháng 2.
- Được rồi, tớ sẽ cho vận tải đem ngay cho cậu và cấp luôn hai cơ số đạn nữa.
10 giờ ngày 16 tháng 2, anh Phạm Hồng Sơn xuống Sở chỉ huy Trung đoàn 64 ở gần bản R. Niên, anh giao nhiệm vụ:
- Trung đoàn 64 có nhiệm vụ tiến công điểm cao 543 (địch gọi là căn cứ 31) bằng chiến thuật vây lấn. Sáng ngày 20 tháng 2 nổ súng, ngày 23 tháng 2 tiến công diệt điểm. Cố tạo thế đánh hiệp đồng binh chủng để tiêu diệt điểm nhanh gọn.
Nhận nhiệm vụ, tôi bàn với anh Đặng Văn Trượng Chính ủy tổ chức hội nghị Đảng ủy trung đoàn mở rộng. Mở đầu hội nghị, anh Trượng nói mục đích, ý nghĩa cuộc họp rồi anh giới thiệu tôi lên báo cáo tình hình địch và nêu nhiệm vụ mới của trung đoàn. Tôi nói:
- Trung đoàn được tăng cường một đại đội xe tăng, 4 khẩu pháo Đ.74, một đại đội súng máy cao xạ 14,5 ly, một tiểu đoàn pháo cao xạ 37 ly có nhiệm vụ tiêu diệt địch ở điểm cao 543 (căn cứ 31). Căn cứ 31 gồm bốn mỏm liên tiếp. Mỏm một là khu trung tâm của chỉ huy địch. Mỏm hai phía đông bắc do một tiểu đoàn chốt giữ. Trận địa pháo, sân bay trực thăng dã chiến nằm xen kẽ ở giữa các mỏm đồi. Mặt đồi toàn cỏ tranh, thi thoảng mới có một vài bụi le nhưng bom cháy đã đốt trụi. Dưới sườn là những rừng cây rậm rạp. Theo trinh sát báo cáo trên căn cứ địch đã xây dựng xong công sự, hào giao thông. Nhưng bị pháo ta bắn phá liên tục nên hệ thống phòng ngự chưa hoàn chỉnh, nhất là vật cản còn thiếu nhiều. Lực lượng dịch ở đây có khoảng hơn 600 tên, 6 khẩu pháo 105 ly, 4 khẩu cối 81, bốn khẩu ĐKZ 57, một khẩu ĐKZ 106, một xe tải, 2 xe vận tải, 4 xe Zeep.
Về hoạt động của địch, đại đội 31, 34 không lùng sục dọc đường 16A mà kéo về đóng quân ở mỏm hai, mỏm ba và mỏm bốn. Đại đội 32 lùng sục ở phía nam căn cứ. Tàn binh của đại đội 33 và tiểu đoàn 6 dù còn lại nằm xung quanh. Trong căn cứ lực lượng địch không có gì thay đổi. Nhìn chung điểm cao 456 (543) đã bị cô lập. Sau trận thắng của ta ở đồi Không Tên tinh thần binh lính địch rất hoang mang, lo sợ. Đây là thời cơ tốt để trung đoàn ta tiêu diệt căn cứ này.
Khi Tham mưu trưởng Trung đoàn - đại úy Nguyễn Hữu Ưng phổ biến kế hoạch hiệp đồng tác chiến và dự kiến sử dụng lực lượng, tôi thấy không khí cuộc họp sôi nổi hẳn lên. Sau đó tôi quyết định:
- Giao nhiệm vụ chủ yếu cho Tiểu đoàn 8. Tiểu đoàn 9 làm nhiệm vụ dự bị, khi cần sẽ tăng cường cho Tiểu đoàn 8 tiến công dứt điểm. Tiểu đoàn 7 tiếp tục chốt ở đường 16A, không cho địch ở Bản Đông lên tăng viện...
Chiều ngày 19 tháng 2 năm 1971, trên một mỏm đồi đối diện với điểm cao 543, Tham mưu phó trung đoàn Phạm Quang Bào và Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 8 Lê Công Man lên quan sát căn cứ 31 lần cuối. Tiểu đoàn trưởng Man đưa ống nhòm nhìn về hướng đông nam, dồi 543 hiện lên rõ mồn một, khu thông tin, bãi đáp máy bay, trận địa pháo, những hầm hố công sự nửa chìm nửa nổi nham nhở, lở loét. Thi thoảng có dăm ba tên lính đi như chạy trên mặt đất. Vì chúng sợ chốc chốc pháo của ta lại bất thần dựng lên những đụn khói trong căn cứ. Nhìn sang hai mỏm đối diện, nằm ở phía bắc căn cứ, Tiểu đoàn trưởng Man vừa chỉ vừa nói với Tham mưu phó Bào:
- Đại đội 5 đảm nhiệm hướng vây lấn chủ yếu sẽ chiếm lĩnh hai mỏm đổi này và lấy đấy làm bàn đạp vây lấn đầu tiên. Vị trí chỉ huy tiểu đoàn và trận địa hỏa lực hỗn hợp cối, ĐKZ, 12,7 của trung đoàn tăng cường sẽ đặt ở phía sau Đại đội 5. Đại đội 7 cơ động sẵn sàng chi viện cho Đại đội 5 và các mũi khác khi cần thiết.
Tiểu đoàn trưởng Man lại đưa ống nhòm sang mỏm hai, hướng thứ yếu nằm ở đông bắc căn cứ. Mỏm này cách trun tâm căn cứ khoảng 400 mét, nhưng rất dốc, cây thưa... Đại đội 6 đảm nhiệm hướng này. Phải có công tác chuẩn bị thật tốt để bám trụ, lấn dũi. Trận địa hỏa lực trực tiếp chi viện đặt phía sau hơi chếch về bên trái 300 mét. Trận địa hỏa lực đặt như vậy là chưa đạt, vì hỏa lực hầu hết là bắn tà dương. thế phát triển của bộ binh bị hạn chế, đường cơ động trống trải, nhưng cũng chẳng có chỗ nào tốt hơn.
Các anh quan sát các hướng, những quả đồi kế tiếp nhau bao quanh căn cứ sẽ là những trận địa hỏa lực của trung đoàn và cấp trên tăng cường; trận địa 37, cối 82, ĐKZ 75, súng máy 14,5 sẽ chi viện cho Tiểu đoàn 8 trong những ngày vây lấn. Những trận địa này, tất cả đều nhô ra hầu hết bắn tà âm chẳng khác nào như cả đáo vậy.
Trước ngày nổ súng anh Phạm Hồng Sơn xuống Trung đoàn 64, đi cùng anh có một trinh sát pháo binh thuộc Trung đoàn 675 và tăng cường 4 khẩu pháo Đ.74. Được bổ sung lực lượng kịp thời, bộ đội ta rất phấn khởi. Cậu Toàn trinh sát pháo binh nhìn sang căn cứ 31 tự tin nói: "Các thủ trưởng yên trí, em sẽ cho pháo ta đập nát điểm cao này".
5 giờ 30 phút, tôi điện cho Tiểu đoàn trưởng Man, nhắc lại hiệp đồng: Đúng 6 giờ tất cả các trận địa hỏa lực nổ súng, tạo thời cơ cho bộ binh phát triển trận địa vây lấn.
Đúng 6 giờ, tôi phát lệnh nổ súng.
Qua mấy lần bắn thử, phần tử bắn đã sẵn sàng. Pháo ta có thể bắn bất cứ mục tiêu nào theo yêu cầu của bộ binh. Hai đụn khói màu nâu chưa tan hết trên khu vực trận địa pháo địch thì bốn phát, rồi tám phát bắn loạt đã lại tiếp. Căn cứ dịch rung lên trong tiếng nổ rền của đạn pháo ta. Trên các hướng Đại đội 5 và Đại đội 6 tiếng súng cũng bắt đầu rộ lên.
Tôi điện cho Tiểu đoàn trưởng Man:
- Hướng Đại đội 5 và Đại đội 6 tình hình thế nào rồi?
Từ đầu dây bên kia giọng Man qua một đêm đốc chiến đã bắt đầu khàn khàn, đôi chỗ mất tiếng:
- Báo cáo trung đoàn trưởng, các mũi phát triển tốt.
- Anh động viên anh em tranh thủ lúc pháo bắn cho triển khai công sự. Nhớ nói anh em dù chỉ là đứng chân tạm thời cũng phải làm công sự thật tốt để tối còn phát triển tiếp.
Pháo tầm xa vẫn tiếp tục bắn phá, bộ binh vẫn tiếp tục phát triển. Các đường hào vây lấn mỗi lúc một nhích dần vào hàng rào căn cứ địch. Chúng đã phản ứng điên cuồng, nhưng không có phương hướng đối phó rõ rệt, mặc dù đã phát hiện thấy những đường hào vây lấn của quân ta mỗi lúc một siết chặt. Địch vẫn chưa phát hiện được hướng nào là hướng tiến công chủ yếu của ta.
Trong khi bộ binh ta tập trung vào nhiệm vụ xây dựng chiến hào vây lấn thì các trận địa hỏa lực tích cực đánh phá những mục tiêu trong căn cứ dịch. Một kế hoạch bắn phá của pháo binh ta rất chu đáo trong việc sử dụng hỏa lực hỗn hợp trong chiến thuật vây lấn của Trung đoàn 64. Sau này ta thu được sổ tay tác chiến của lữ dù 3, viên thiếu tá Đức - trưởng ban tác chiến lữ đoàn báo cáo đại tá Thọ: "Pháo binh của đối phương hôm nay hoạt động rất nguy hiểm. Họ không bắn "diện" như mọi hôm mà đã chuyển sang bắn "điểm". Tôi đã truyền lệnh của đại tá cho các nơi đánh dấu mục tiêu, nhưng các nơi đều không báo cáo được. Theo tôi họ đặt pháo rất phân tán. Việc ngụy trang lại rất giỏi. Cách bắn cũng không thành quy luật. Có thể nói, đối phương đã tổ chức một mạng lưới hỏa lực rất hoàn hảo cả trên không và dưới mặt đất. Bộ binh của đối phương đã xuất hiện. Nhưng tên lửa cá nhân của họ đã phá sập nhiều ụ súng của ta... Suốt ngày ta đã ném hàng chục tấn bom, bắn hàng nghìn trái pháo, rừng đã cháy trụi mà sao họ vẫn tồn tại được...".
Đúng vậy, với số lượng đạn không nhiều, nhưng chúng tôi đã tổ chức tốt, có kế hoạch bắn phá tỷ mỷ, chu đáo, nhiều tầng, tạo ra sức mạnh lớn, vừa có khả năng tiêu hao sinh lực, phương tiện, công sự, chướng ngại lại vừa uy hiếp, khống chế địch, giành thế chủ động cho hành động của bộ binh trên chiến trường.
Sang ngày 21, mới sáng ra hai tốp máy bay AD6 đã gầm rít điên loạn trên bầu trời. Trận địa cao xạ 37 ly của ta nổ súng xé đội hình máy bay địch. Nhưng tốp thứ nhất, rồi tốp thứ hai nối nhau lao xuống trút bom. Trận địa vây lấn của Đại đội 5 và Đại đội 6 khói lửa mịt mù.
Ở hướng Đại đội 6, ngay sau khi máy bay bắn phá, Đại đội trưởng Đàm Vũ Hiệp và Chính trị viên Đỗ Ngọc The đã có mặt ở Trung đội 2. Sự có mặt kịp thời của các anh đã giúp Trung đội 2 khắc phục nhanh chóng hậu quả.
Nhưng sau đó, hai tốp A.37 đã lao đến đánh phá tiếp nhằm buộc ta phải giãn vòng vây. Tiếng bom đạn ầm ầm, cây côi gãy đổ ngồn ngang. Trong khói mù của bom đạn, Đại đội trưởng Hiệp và các chiến sĩ Trung đội 2 vẫn lăn lộn dập lửa, củng cố các công sự sụt lở, băng bó và nhanh chóng chuyển thương binh về vị trí an toàn. Rồi tất cả lại về vị trí của mình, sẵn sàng chiến đấu.
Ở hướng Trung đội 3 Đại đội 5, tình hình còn khó khăn hơn. Sau đợt máy bay địch ném bom và pháo binh bắn phá làm phần lớn hầm hố bị sạt lở. Lực lượng ta một số hy sinh và bị thương, trong đó có Trung đội trưởng Đại. Trung đội 3 bắt đầu gặp khó khăn. Càng về trưa, địch càng đánh phá ác liệt. Một số chiến sĩ không trụ nổi phải bật khỏi vị trí lùi về phía sau. Thấy ta núng thế, địch bắt đầu tổ chức nống ra chiếm lại các trận địa vây lấn. Đại đội trưởng Đại đội 6 Đàm Vũ Hiệp tập trung toàn bộ hỏa lực có trong tay ở tuyến một. đồng loạt bắn vào quân địch đang lố nhố tràn ra hàng rào. Hai chục tên bị diệt, số còn lại cắm cổ chạy thục mạng vào căn cứ. Ít phút, địch lại tập trung các loại hỏa lực bắn phá vào trận địa Đại đội 6 rồi ra lôi xác đồng bọn. Chúng tổ chức khá thận trọng, tốp đi trước, tốp đi sau hỗ trợ nhau thực hiện việc kéo xác. Đại đội 6 kịp thời nổ súng không cho chúng thực hiện ý định. Cảnh lính ngụy đứa chết, đứa bị thương nằm đè lên nhau kêu gào thảm thiết, gây nỗi hãi hùng cho những tên địch đang nằm trong căn cứ.
Tôi còn nhớ tổ 3 người của Trung đội 3 Đại đội 5 trên tuyến một chờ 15 tên địch lọt vào trận địa mới đồng loạt nổ súng, ném lựu đạn vào giữa đội hình chúng. Khi khói tan chỉ còn vài tên lết trở về.
Ngày 22 tháng 2, trên hướng vây lấn chủ yếu, Đại đội trưởng Đại đội 5 Bành Thế Bình (trước đó anh là Đại đội phó Đại đội 6 mới về Đại đội 10 công tác được 2 ngày, trung đoàn lại điều sang thay Đại đội trưởng Đại đội 5), sau khi xem xét toàn bộ trận địa đã đề nghị tiểu đoàn cho anh đưa tuyến một vây lấn vào sát hàng rào thứ nhất, tiểu đoàn nhất trí.
Tối ngày 22, Bình thận trọng đưa bộ đội vào chiếm lĩnh trận địa vì với tình hình đơn vị hiện nay, anh không muốn một ai bị thương vong trước khi nổ súng. Ít phút sau tuyến một vây lấn sát nách địch được hình thành. Suốt ngày 22, căn cứ 31 vẫn phơi ra cho pháo ta bổ xuống. Nhiều công sự, lô cốt của địch bị phá hủy.
Sang ngày 23 tháng 2, sau 3 ngày vây lấn, Tiểu đoàn 8 từ hướng tây bắc đánh vào vẫn chưa tạo được thế để chuyển sang tiến công dứt điểm mà hao tổn sinh lực và phương tiện đã lên đến con số đáng kể. Rõ ràng Tiểu đoàn 8 không phải là không có quyết tâm, ban đầu tuy có gặp trục trặc nhưng đã kịp thời chấn chỉnh. Mấy ngày qua, tuy bị địch đánh phá vô cùng ác liệt vẫn kiên cường bám trụ, đẩy lùi các đợt phản kích của chúng, có tổ đã chiến đấu đến người cuối cùng. Vậy thì tại sao ta vẫn chưa tạo được thế tiến công dứt điểm?
Sáng ngày 24, tôi tổ chức một cuộc họp cán bộ chủ trì từ cấp tiểu đoàn trở lên. Dự họp còn có anh Nguyễn Ân - Tham mưu phó Sư đoàn 304, anh Đô - Trung đoàn trưởng xe tăng, anh Toàn - Trung đoàn phó pháo binh Trung đoàn 675 là cán bộ của Bộ Tư lệnh chiến dịch tăng cường. Tôi nói:
- Ta chọn hướng đột phá tây bắc, đánh vào mấy lần không được. Tinh thần bộ đội vẫn tốt, anh em dũng cảm, có tổ, có tiểu đội chiến đấu đến người cuối cùng. Ở đây phải chăng ta chọn hướng tiến công chủ yếu chưa đúng. Do vậy, tôi đề nghị thay đổi hướng tiến công từ hướng đông - đông nam lên.
Nghe tôi nói xong anh Nguyễn Ân nói:
- Chọn hướng tiến công chủ yếu Bộ Tư lệnh chiến dịch đã tính toán, cân nhắc. Ta phải chấp hành hướng tiến công của Bộ Tư lệnh chiến dịch chọn. Nếu thay đổi phải được sự đồng ý của trên.
Anh Toàn - Trung đoàn phó pháo binh nêu ý kiến:
- Tôi nhất trí với ý kiến của anh Tiến. Hướng tây bắc qua mấy ngày chiến đấu đã lộ, địch tập trung đối phó. Nếu ta cứ tiếp tục đánh hướng này, tôi tin rằng rất khó khăn.
Anh Độ, Trung đoàn phó xe tăng phát biểu:
- Tôi nhất trí là thay đổi hướng đột phá, nhưng hướng đông - đông nam xem xe tăng có đi được không?
Tôi kết luận:
- Đã đến lúc chúng ta chịu trách nhiệm với trên về chọn hướng tiến công mới, hướng chủ yếu từ đông - đông nam, do Tiểu đoàn 9 đảm nhiệm. Hướng tây bắc Tiểu đoàn 8 chuyển thành hướng thứ yếu. Sau đây anh Bào Tham mưu phó trung đoàn, anh Vĩnh - Tiểu đoàn phó xe tăng, anh Doanh -Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 9, mấy trợ lý tác chiến và tổ trinh sát, một đài 2W đi xác định hướng tiến công mới. Các anh tổ chức đi ngay vì thời gian rất gấp rồi.
Sau cuộc họp này, các đơn vị của Trung đoàn 64 chúng tôi và các đơn vị được tăng cường hối hả bước vào chuẩn bị cho trận chiến đấu mới.
Khoảng 10 giờ 30 phút ngày 25, anh Bào điện về:
- Báo cáo Trung đoàn trưởng chúng tôi đã kiểm tra hướng đông nam xe tăng đi được ạ.
Tôi hỏi lại:
- Có chắc chắn không?
- Anh Vĩnh - Tiểu đoàn phó xe tăng khẳng định là đi được.
Tôi dặn thêm anh Bào:
- Các anh cho người đón bộ đội, còn lại tiếp tục vào sát căn cứ, chọn hướng đột phá.
Giao nhiệm vụ cho Bào xong, tôi quay sang anh Độ, Trung đoàn trưởng xe tăng:
- Anh cho 4 xe tăng bắt đầu xuất kích, bám theo đội hình Tiểu đoàn 9, đến vị trí xuất phát tiến công thì bộ binh dừng lại, xe tăng lên trước dẫn bộ đội đột phá.
Cùng ngày 24 tháng 2, tại Đông Hà, viên tướng Mỹ Su-dớc-len và tướng ngụy Hoàng Xuân Lãm đã trao đổi về tình hình lữ đoàn dù số 3 và cả cánh bắc mặt trận. Cả hai đều rất lo ngại về số phận của lữ dù 3 ở căn cứ 31.
Theo lệnh của tướng A-bram, tướng Hoàng Xuân Lãm điện cho Nguyễn Văn Thọ, lữ đoàn trưởng lữ dù 3 phái một đơn vị xuống đường 9 liên lạc với thiết đoàn 11, 17, đưa lực lượng này lên giải tỏa căn cứ 31 và nếu có thể yểm trợ cho quân dù rút chạy.
Nhận được tin, Thọ mừng quá báo ngay cho Phát, tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 3 được thực thi. Nhưng hai thiết đoàn công khai kháng lệnh với lý do đơn giản là chúng cũng đang bị vây đánh ở Bản Đông. Thọ bực dọc ra lệnh cho tất cả các đại đội đang hoạt động ở bên ngoài về căn cứ. Đức, tham mưu trưởng lữ đoàn can ngăn nhưng Thọ nhất quyết: "Cần kéo chúng về gần, một là vì chúng đã bị thiệt hại quá nặng, để hoạt động xa không có tác dụng nữa. Hai là, trên căn cứ tử thương đã quá nhiều, ở đây ta cần phải có thêm lực lượng, dù chỉ là một thằng lính. Ông hiểu chứ!".
Rút cuộc chỉ có Đại đội 34 tả tơi là kéo được về nằm ở Đồi Xanh, phía đông nam.
Ngày 25 tháng 2, buổi sáng cuộc chiến đấu dai dẳng giữa các chiến sĩ Tiểu đoàn 8 Trung đoàn 64 với bọn địch trong căn cứ 31 vẫn tiếp diễn như thường lệ. Đã hai hôm nay, mỗi khi bị ta tiến công, địch chống trả quyết liệt cả bộ binh và máy bay, pháo binh oanh tạc.
10 giờ 30 phút, anh Phạm Hồng Sơn điện cho tôi:
- Tiến ơi! Ông Dũng bảo mày chậm chạp quá!
Tôi trả lời:
- Thưa anh trong ngày hôm nay chúng tôi sẽ san phẳng căn cứ địch!.
Khi địch phát hiện hướng đông nam có xe tăng và bộ binh của ta xuất hiện, chúng rất hoang mang, liền gọi cho máy bay F4 đến đánh chặn xe tăng ta. Một chiếc phản lực Mỹ vùn vụt bổ nhào, lập tức khẩu 12,7 trên tháp xe 563 dựng đứng quất lên một dòng đạn, chiếc máy bay chưa kịp làm gì đã bùng ra một đám lửa lớn rồi đâm đầu xuống một cánh rừng cách đó không xa. Cả mặt trận hò reo ầm ầm, bộ đội khí thế hẳn lên.
Đúng 12 giờ 30 phút, tôi ra lệnh cho hướng chủ yếu - đông nam nổ súng tiến công.
Mũi xe tăng thứ nhất đi cùng Đại đội 10 và Đại đội 9 nổ máy, tăng tốc ầm ầm lao đi. Mặt đất rung lên, cây rừng đổ rạp. Mũi xe tăng thứ hai chi viện cho hướng thứ yếu tây bắc chở Đại đội 11 cũng lập tức lao đi. Chỉ mấy phút sau, đủ loại máy bay đã ken dày trên bầu trời căn cứ 31. Rồi bom đạn lại trút xuống, mặt đất rung chuyển bởi tiếng bom nổ liên hồi.
Hai mũi xe tăng và bộ binh ta tiến công trên hai hướng vẫn lướt tới. Đạn pháo xe tăng ta chớp chớp liên hồi trên căn cứ địch. Đạn pháo phòng không đan trắng xóa trên bầu trời, lại một chiếc máy bay trúng đạn bốc cháy khói cuốn mù trời. Đứng trên tháp xe tăng 555 Tiểu đoàn trưởng Doanh dùng tay phất ngang phất dọc ra hiệu cho chiến sĩ ta tiến lên. Bỗng bộ phận đi đầu thông báo: "Có địch chặn đường". Doanh lập tức rời xe, vọt lên trước triển khai đội hình chiến đấu.
Bộ đội ta nổ súng một lúc, bọn lính dù không kháng cự nổi, buộc chúng phải rút chạy. Doanh tiếp tục cho xe tăng và bộ binh nhằm đỉnh đồi căn cứ 31 xông tới. Bỗng một quả bom nổ cách chiếc xe tăng chừng hai chục mét, xe khựng lại. Doanh bị hất đi, một mảnh bom cắm sâu vào ngực anh, máu phun ra đầy áo. Mấy chiến sĩ chạy lại ôm người tiểu đoàn trưởng dũng cảm của mình, lúc này Phạm Công Doanh không nói được nữa, anh đưa cánh tay chỉ lên đỉnh đồi căn cứ 31, như giục cho mọi người tiếp tục tiến công.
Tin Doanh hy sinh báo về, cả sở chỉ huy lặng đi. Ai cũng xót thương người tiểu đoàn trưởng dũng cảm, thông minh, quyết đoán.
Lái xe Đặng Văn Đoàn nén đau thương tìm mọi cách cứu chữa xe. Dù chưa được sống với Doanh nhiều, nhưng chỉ qua những giờ phút được chiến đấu với anh, Đoàn rất khâm phục tinh thần dũng cảm của người chỉ huy tiểu đoàn ấy. Ống nước hỏng được thay thế bằng một vòi cao su, xe 555 lại dẫn đầu mở hết tốc lực lao thẳng về phía trước.
Mũi xe tăng và bộ binh thứ hai, vòng theo sườn đông lên chi viện cho hướng thứ yếu ở phía bắc tiến chậm hơn vì đường dốc, rừng rậm, khe rãnh nhiều nhưng mũi này cũng tạo nên một thế trận bao vây lợi hại, khiến cho bọn chỉ huy trong căn cứ càng hoang mang khi liên tiếp nghe các hướng báo về có xe tăng ta xuất hiện.
Khi chiếc xe tăng 555 lao đến tuyến hàng rào, Trưởng xe Nguyễn Văn Duyên và lái xe Đặng Văn Đoàn đã nhìn thấy nhiều tia lửa vạch đường chỉ mục tiêu của bộ binh ta. Qua ống kính xe tăng, Duyên nhìn thấy khẩu ĐKZ 106 đặt trong một lô cốt không nắp. Anh cho xạ thủ nạp đạn, trong nháy mắt quả pháo trên xe tăng đã hất tung khẩu ĐKZ của địch. Từ hướng trái xe, một tổ chống tăng của địch liều mạng xông ra, chúng bắn một quả M.72, Đoàn hãm đứng xe lại, quả đạn xanh lè lướt qua đầu xe. Chúng bắn tiếp quả đạn thứ hai, nhưng Đoàn đã kéo tay lái cho đầu xe hướng về phía địch, thu nhỏ mục tiêu, quả đạn vượt qua mép xích phải. Khi địch chuẩn bị bắn quả đạn thứ ba thì một xạ thủ B.40 của bộ binh đã bắn một quả đạn kết liễu đời chúng.
Xe tăng và bộ binh ta lao thẳng vào căn cứ địch. Tiếng hô vang dậy một vùng. Một ụ súng đại liên bất ngờ hiện ra trước đầu xe tăng của Đoàn, chúng cắm cổ bắn như vãi đạn. Quá gần, Đoàn nghiến chặt răng, tăng tốc xe. Một tiếng rít nhẹ dưới vành xích để lại một hố lổn nhổn xác mấy tên địch và khẩu súng đại liên.
Trên hướng tây bắc, trước khi có lệnh tiến công, Đại đội 5 bị mất liên lạc với tiểu đoàn. Nhưng theo hiệp đồng chiến đấu, Đại đội trưởng Bình dồn toàn bộ hỏa lực lên phía trước. Pháo các loại vừa ngừng bắn, anh ra lệnh tiến công luôn. Vừa chiếm được tầng công sự thứ nhất thì anh phát hiện được mũi xe tăng Đại đội 11 lên hỗ trợ, Bình cho đơn vị bám theo xe tăng thọc sâu vào trong.
Trên hướng đông bắc, Đại đội 6 và Đại đội 10 mới tăng cường, ngay sau khi pháo ta vừa chuyển làn đã ào ạt lên chiếm được tuyến công sự vành ngoài rồi nhanh chóng đánh theo các hướng đã phân công. Nhưng các hướng đầu phát triển chậm, do địch lợi dụng thế cao ra sức chống trả. Giữa lúc hai đơn vị đang tổ chức đột phá tiếp thì mũi xe tăng của Đại đội 5 và Đại đội 11 ầm ầm lao tới. Bọn địch hoảng loạn bỏ chạy thục mạng. Chớp thời cơ, hai đại đội ào lên đuổi theo.
Trước sức tiến công mạnh mẽ của quân ta, lũ lính dù nhiều tên giơ tay xin hàng. Hướng Đại đội 6 báo cáo: "Bắt được năm, sáu chục tù binh, có cả thiếu tá và trung tá".
Bộ đội phát triển đến trận địa pháo, hầm chỉ huy lữ đoàn trưởng lữ đoàn dù số 3. Bộ binh và xe tăng ta tràn ngập khắp căn cứ 31. Lúc đó là 16 giờ 30 phút.
Tin quân ta làm chủ căn cứ 31 báo về Sở chỉ huy trung đoàn, tôi ra lệnh:
- Chốt giữ các mục tiêu quan trọng, tổ chức cho bộ đội lùng sục. Cho người áp giải tù binh về Sở chỉ huy trung đoàn.
Lập tức chỉ huy các đơn vị phân công cán bộ đi kiểm tra bọn tù binh thì thấy còn thiếu đại tá Nguyễn Văn Thọ - lữ đoàn trưởng, tên Phương - tiểu đoàn phó pháo binh và một số tên khác. Thế là các đơn vị được phân công tổ chức lùng sục. Tổ của Đại đội 6 gồm có Đại đội phó Nguyễn Xuân Trường, liên lạc Trần Văn Lượng, xạ thủ B.40 Nguyễn Văn Châu và một số chiến sĩ khác kiểm tra khu vực sở chỉ huy trận địa pháo. Châu và Lượng tiến theo ngách hào, các anh bắt được gần chục tên và đang đuổi một số tên vừa chạy vào căn hầm trước mặt. Châu gọi nó đến lần thứ ba mà chưa thấy động đậy. Lượng tức quá tung một quả lựu đạn khói. Tên địch hốt hoảng chui ra, nó chính là đại úy Phương, tiểu đoàn phó pháo binh.
18 giờ 30 phút anh em báo cáo đã lùng sục kỹ không phát hiện được tên Nguyễn Văn Thọ. Nhưng đài kỹ thuật của ta báo là vẫn còn Nguyễn Văn Thọ trong căn cứ. Tôi ra lệnh cho Chính trị viên phó Tiểu đoàn 8 Nguyễn Văn Đông tổ chức một bộ phận lùng sục tiếp, nhưng vẫn không tìm thấy Thọ.
19 giờ, đài kỹ thuật bắt được sóng, Thọ điện về xin cấp trên oanh tạc vào căn cứ, cho viện binh tái chiếm. Tôi điện cho Đông:
- Tên Thọ vẫn trong căn cứ, cậu động viên bộ đội tiếp tục lùng sục bắt bằng được nó.
20 giờ, Đông báo cáo:
- Chúng em đã kiểm tra chỉ thấy những xác chết thôi.
- Nhưng đài kỹ thuật báo cáo với tôi là thằng Thọ chắc chắn còn trong căn cứ. Cậu tổ chức lùng sục tiếp.
Tổ của Đại đội 10 gồm Đại đội phó Nhã, Trung đội phó Nguyễn Thọ Quyết, Tiểu đội trưởng Hà Thanh Dục và hai chiến sĩ kiểm tra khu vực hầm tiểu đoàn 3 lữ dù 3. Khi đến cửa hầm, Quyết và Dục sục vào trong. Dục kiểm tra ngách một và ngách hai, Quyết vào sâu kiểm tra ngách ba. Quyết dùng đèn pin soi, dưới ánh đèn pin một tên địch dài ngoằng nằm vắt ngang đống hòm gỗ, bên sườn khẩu súng ngắn xệ ra, dưới gáy một vũng máu đen thẫm - nó đã chết.
Quyết và Dục thận trọng vào sâu thêm. Ánh đèn pin của Quyết quét loang loáng, bất chợt anh dừng lại trước một cái xác nằm ép mặt vào trong. Dục sờ thấy còn nóng, cậu ta tức quá bắn một phát AK cách đầu hắn một gang, làm nó giật mình đưa tay sờ soạng. Quyết nói:
- Hóa ra mày còn sống. Bỏ vũ khí ra, đầu hàng ngay!
Tên địch run rẩy tháo súng nộp cho anh và làm tất cả những gì mà anh yêu cầu.
Quyết hỏi:
- Tên mày là gì?
- Dạ, Nguyễn Văn Thọ - đại tá, lữ trưởng.
Quyết sung sướng gọi toáng lên:
- Thằng đại tá Thọ đây rồi! Đại tá Thọ đây rồi.
Đông điện cho tôi:
- Báo cáo trung đoàn trưởng, chúng tôi đã bắt được đại tá Thọ.
- Cậu cho người dẫn giải nó về sở chỉ huy ngay.
- Vâng!
Đông nói Quyết, Dục và mấy chiến sĩ nữa giải Thọ về Sở chỉ huy trung đoàn.
Giữa căn cứ 31, Nguyễn Văn Thọ cúi đầu lặng lẽ đi.
Trên đường mưa trơn, lúc xuống dốc Thọ đẩy Quyết ngã, rồi chạy vào rừng. Quyết báo cáo Đông:
- Thằng Thọ chạy rồi, đề nghị anh cho người truy lùng.
Đông tập hợp một tiểu đội rồi ra lệnh:
- Tất cả lên đạn, tìm bằng được nó, nếu nó cố tình chạy cho bắn chết.
Thọ nằm trong bụi cây cách đường vài mét nghe Đông nói vậy, anh ta sợ quá:
- Dạ, dạ tôi bị té.
Nghe được tin Đông báo tên Thọ đã chạy, nhưng anh em bắt được rồi tôi cử cậu Thiết, thượng úy, trợ lý pháo binh lên trực tiếp giải Thọ về.
Sáng hôm sau Thiết dẫn Thọ về Sở chỉ huy trung đoàn. Anh em dùng dây dù thòng lọng vào cổ Thọ, hai tay anh ta trói nhưng tay vẫn vung vẩy được. Thiết cầm dây đi trước.
Tôi nhìn Thọ thảm hại, chân đi xiêu vẹo, mắt đỏ ngầu vì mất ngủ, quần áo bê bết bùn đất, anh ta đi chân đất, đôi giày treo lên cổ. Tôi nói anh em lấy cơm nguội cho Thọ ăn. Cơm chỉ có ma-gi, nhưng anh ta ăn hết ba bát. Ăn xong, tôi nói công vụ pha cho anh ta một bát "B.52" sữa bột. Thọ bưng hai tay, rơm rớm nước mắt.
Cơm nước xong xuôi, tôi nói:
- Bây giờ tôi hỏi anh phải nói thật. Anh nói trung thực bao nhiêu thì lượng khoan hồng với anh được bấy nhiêu.
- Dạ! Ông cho tôi mượn tấm bản đồ.
Tôi đưa bản đồ 1/100.000 cũ của ta, Thọ nói: Tôi xem không rõ.
Tôi đưa tấm bản đồ vừa thu được của chúng, Thọ nói rõ từng ý định đến các bước thực hiện, các trận địa pháo, loại pháo, mỗi loại bao nhiêu khẩu, xe tăng, thiết giáp, lực lượng của Mỹ đang ở phía sau...
Nghe xong, tôi thấy anh ta nói trùng khớp với những gì ta nắm được.
Thọ như lấy lại được bình tĩnh nên nói năng hoạt hơn, anh ta kể: Tôi là giáo viên trung học, nhà nghèo, bị bắt quân dịch. Tôi cũng chẳng thích thú gì cầm súng...
Sang tháng 3, cục diện chiến trường Đường 9 - Nam Lào đã có những chuyển biến lớn. Quân địch chưa thực hiện được mục tiêu đánh chiếm Sê Pôn, mà những biểu hiện sa lầy, đổ vỡ của cuộc hành quân đã phơi bày rõ rệt. Ở hướng tây, quân ngụy Lào cũng bị đánh tả tơi, không thực hiện được ý đồ chiến dịch lại còn để mất thêm những địa bàn trọng yếu. Cánh bắc cơ bản bị Sư đoàn 308 và Trung đoàn 64 đập tan. Cánh nam bị Sư đoàn 324, Sư đoàn 2 và lực lượng các binh trạm Đoàn 559 đánh thiệt hại nặng. Trung đoàn 3 sư đoàn 1 ngụy đã phải tháo chạy khỏi những vị trí then chốt ở cánh nam. Cánh trung tâm cũng bị thiệt hại vì pháo binh và các chốt ta chặn đánh. Do đó, chúng vẫn bị chôn chân ở Bản Đông không tới Sê Pôn được.
Tuy vậy, bộ chỉ huy quân sự Mỹ và vùng 1 chiến thuật ngụy vẫn cố vét các lực lượng dự bị ném vào cuộc chiến hòng xoay chuyển tình thế. Chúng đã tung toàn bộ sư đoàn lính thủy đánh bộ, trung đoàn 2 sư đoàn 1 cùng thiết đoàn 7 vào canh bạc cuối cùng này. Nhưng chưa bao giờ binh lính địch lại hoang mang, dao động đến cực độ như vậy.
Ngày 1 tháng 3, địch buộc phải điều chỉnh mục tiêu chiếm Sê Pôn, chúng coi Sê Pôn như một "mục tiêu tuyên truyền" chứ không phải mục tiêu quân sự nữa.
Sáng ngày 7 tháng 3, Mỹ ngụy ném trung đoàn 2 bộ binh xuống phía tây nhà thờ Sê Pôn. Nhưng bọn này bị pháo binh và bộ binh ta đánh quyết liệt, phải ôm đầu máu chạy về Bản Đông. Trước nguy cơ bị tiêu diệt, Mỹ - ngụy đã ra lệnh cho các cánh quân của chúng rút chạy.
Trước tình hình đó, Bộ Tư lệnh chiến dịch ra lệnh cho các lực lượng bao vây cụm cứ điểm Bản Đông tiến công tiêu diệt cụm cứ điểm này. Trung đoàn 64 chúng tôi đảm nhiệm hướng tiến công từ ngã tư đường 16 và đường số 9 kéo về phía tây điểm cao 229. Ban chỉ huy trung đoàn chúng tôi quyết định dùng Tiểu đoàn 7 và Tiểu đoàn 9 tham gia cuộc tiến công này.
Ngày 17 tháng 3, lực lượng vây ép dùng pháo binh bắn phá tiêu diệt sinh lực địch trong Bản Đông. Ngày 18 tháng 3, Bộ Tư lệnh chiến dịch thông báo địch chuẩn bị rút chạy khỏi Bản Đông và lệnh cho tất cả các đơn vị trên tuyến vây ép tiến công vào những mục tiêu trọng yếu nhất.
Mờ sáng, pháo binh ta đã dồn dập trút đạn xuống khu vực Bản Đông. Nhiều đám lửa lớn, nhiều tiếng nổ dữ dội phát ra từ khu kho, trận địa pháo, trung tâm truyền tin, bãi xe... Cả thung lũng Bản Đông khói lửa ngút trời.
Tại khu vực Trung đoàn 64 đảm nhiệm, tôi ra lệnh cho Tiểu đoàn 7 dùng Đại đội 1 tiến công điểm cao 222, tạo bàn đạp cho tiểu đoàn phát triển. Đồng thời lệnh cho Tiểu đoàn 9 công kích bọn địch chốt rải rác ở hướng nam đường 9.
Sáng 29 tháng 3 năm 1971, Bộ Tư lệnh chiến dịch ra lệnh tiến công vào những mục tiêu cuối cùng.
Trung đoàn 64 chúng tôi tổ chức thành hai mũi: Tiểu đoàn 7 tiến theo dọc đường số 9. Tiểu đoàn 9 tiến theo sườn phía nam hỗ trợ cho Tiểu đoàn 7. Khi chúng tôi đến cách Bản Đông chừng 1 ki-lô-mét, Tiểu đoàn 7 phát hiện một cụm xe tăng địch đang vượt qua một bãi lầy ở sườn nam đường. Tôi ra lệnh cho Tiểu đoàn 7: "Tổ chức đánh ngay".
Đại đội trưởng Đại đội 1 tên là Đôn cho Trung đội 1 cắt rừng lên chặn đầu. Trung đội 2 và Trung đội 3 bám đánh theo. Tôi được biết xạ thủ B.40 Nguyễn Hùng Cường đón đầu phục sẵn. Chiếc xe tăng địch vừa nhô ra mặt đường bị Cường cho một quả đạn thiêu cháy. Bốn chiếc còn lại bị chặn lối đi, đứng tại chỗ bắn loạn xạ. Sau đó thấy tình thế không trụ nổi, chúng vứt xe chạy vào rừng thoát thân. Trung đoàn 64 thu nguyên vẹn, 4 chiếc xe tăng địch.
Ở hướng Đại đội 3, cuộc chiến đấu càng về trưa càng quyết liệt. Một trung đội địch chốt ở phía bắc đường 9 dựa vào thế cao và công sự có sẵn, chống trả điên cuồng. Đại đội 3 nhiều lần đột phá nhưng vẫn chưa dứt điểm. Mãi đến chiều nhờ sự chi viện từ một bộ phận của Đại đội 3 mới dứt điểm được.
Khắp Mặt trận Bản Đông rền vang tiếng súng của bộ đội ta. Đội hình địch bắt đầu rối loạn. Trung đoàn 64 chúng tôi cùng các lực lượng trên toàn mặt trận đổ ra đường số 9 hò reo truy kích địch. Địch xéo lên nhau, cắt rừng chạy thục mạng, xe pháo đổ ngổn ngang, quân dụng vung vãi khắp núi rừng. Bản Đông hoàn toàn được giải phóng. Cũng là "Khúc bi thảm" cuối cùng của cuộc hành quân "Lam Sơn 719" mà quan thầy Mỹ và bọn tay sai đã đặt nhiều hy vọng.
Sau chiến dịch, cấp trên triệu tập cán bộ chỉ huy Trung đoàn 64 và hơn mười cán bộ, chiến sĩ lập công xuất sắc của trung đoàn trong chiến dịch Đường 9 - Nam Lào đi dự hội nghị tổng kết tại sở chỉ huy chiến dịch ở Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình. Hai chiếc xe con của trung đoàn tới vọng gác tôi đã thấy Thượng tướng Văn Tiến Dũng - Tổng Tham mưu trưởng và Chính ủy sư đoàn Phí Triệu Hàm đón ở cổng. Xe dừng lại, mọi người chạy ào tới vây quanh Thượng tướng và Chính ủy. Thượng tướng vui vẻ nói ngay:
- Xin chúc mừng chiến công của các đồng chí. Trung đoàn 64 đánh khá lắm!
Sáng hôm sau, Thượng tướng nói chuyện với hội nghị. Đồng chí nêu rõ ý nghĩa thắng lợi của chiến dịch, biểu dương sự tiến bộ của sư đoàn, đặc biệt nhấn mạnh thành tích của Trung đoàn 64. Cuối cùng Thượng tướng chỉ thị:
- Phải tổng kết cho ra kinh nghiệm, phải biết phát huy ưu điểm, khắc phục khuyết điểm mới đưa đơn vị tiến nhanh được. Đó là quy luật phát triển của quân đội ta nói chung và sư đoàn ta nói riêng.
Một tuần sau, cũng ở hội trường sở chỉ huy chiến dịch Đường 9 - Nam Lào, những đại biểu rất vui mừng được đón Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Tổng Tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam. Khi cả hội trường ngớt tiếng vỗ tay, Đại tướng hỏi ngay:
- Cán bộ Trung đoàn 64 ngồi chỗ nào?
Sư đoàn phó Đoàn Hồng Sơn giới thiệu từng người với Đại tướng. Khi đến trước mặt tôi, Đại tướng ôm hôn và nói:
- Trung đoàn các cậu đánh giỏi lắm!
Tôi báo cáo vắn tắt trận đánh đổ bộ đường không diệt tiểu đoàn 6 dù và trận vây diệt căn cứ 31. Sau khi nghe báo cáo, Đại tướng hỏi tôi:
- Tác chiến sắp tới, muốn tiêu diệt nhiều sinh lực địch hơn thì quy mô, phương thức tác chiến nên như thế nào?
Tôi trả lời ngay:
- Báo cáo Đại tướng, qua thực tế rút ra, muốn thắng to, tốt nhất phải đánh tập trung hiệp đồng binh chủng. Nhưng muốn đánh được hiệp đồng binh chủng tốt thì phải có đội ngũ cán bộ có quyết tâm, giàu kinh nghiệm về tổ chức, chỉ huy và chiến sĩ phải thiện chiến.
Đại tướng cười:
- Đúng, vấn đề này cũng cần nghiên cứu.
Sau đó, Đại tướng căn dặn:
- Một là, tập trung nuôi dưỡng bộ đội thật tốt để nhanh chóng khôi phục sức khỏe. Hai là, tập trung tổng kết. Tổng kết phải nói đúng sự thật, ưu điểm, khuyết điểm rõ ràng, đúng mức. Tổng kết để học chứ không phải tổng kết để ngắm vuốt mình.
Nói về thắng lợi trong chiến dịch Đường 9 - Nam Lào. Đại tướng Võ Nguyên Giáp nói:
- Trận này là một trong những trận có ý nghĩa quyết định về chiến lược. Cùng với việc đánh bại cuộc hành quân lớn của địch trên chiến trường Cam-pu-chia, thắng lợi trên Mặt trận Đường 9 - Nam Lào đã mở ra một triển vọng hiện thực đánh bại chính sách "Việt Nam hóa chiến tranh" của Mỹ về quân sự. Thắng lợi này còn là thắng lợi trong cuộc đọ sức rất quyết liệt giữa các lực lượng tinh nhuệ nhất của quân ngụy được Mỹ phối hợp chiến đấu với lực lượng dự bị chiến lược của ta ở miền Bắc. Trong cuộc đọ sức đó, ta đã thắng to, địch đã thua to. Đây là một trận thắng có ý nghĩa chiến lược là vì thế. Qua thắng lợi này, ta đã giải quyết tốt vấn đề đánh lớn của bộ đội chủ lực và muốn đi đến thắng lợi, đi đến kết thúc chiến tranh thì trên mặt trận quân sự phải có nhiều trận thắng lớn của bộ đội chủ lực.
Năm tháng sẽ trôi đi, nhưng thắng lợi trong chiến dịch Đường 9 - Nam Lào của quân và dân ta mãi tô thắm thêm trang sử hào hùng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc. Trong chiến dịch đáng ghi nhớ này, với tôi có biết bao kỷ niệm vui vì mình cùng lãnh đạo, chỉ huy trung đoàn đã biết đổi hướng tiến công, thời điểm tiến công và lực lượng tiến công trong những hoàn cảnh cuộc chiến. Buồn vì mất đi những cán bộ, chiến sĩ quả cảm, nhưng tôi nghĩ sự hy sinh của các anh mới đem lại chiến thắng huy hoàng cho Trung đoàn 64 anh hùng, cho chiến dịch đại thắng.



Bình luận